Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Thực phẩm gây ung thư: Nên hiểu thế nào cho đúng?

Nhắc tới một chất nào đó trong thực phẩm gây ung thư, chúng ta thường có tâm lý hoang mang lo sợ. Vậy, ta nên hiểu cặn kẽ vấn đề này như thế nào?

Không nên quá nhạy cảm với cụm từ 'gây ung thư' hay 'gây hại sức khỏe'

Ung thư là căn bệnh ám ảnh với nhiều người. Bởi lẽ đó, chỉ cần thoạt nghe bất cứ thứ gì liên quan đến ung thư, chúng ta đều sợ. Tuy nhiên, cần biết rằng, nỗi sợ hãi, căng thẳng, lo âu quá mức lại cũng chính là khởi nguồn ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch của cơ thể, khiến chúng ta mất ngủ, stress, ăn uống không ngon, để rồi dễ bị bệnh tật tấn công, bao gồm cả ung thư. Nói vậy để thấy, sự lạc quan và cách nhìn nhận mọi vấn đề một cách bình tĩnh, thấu đáo, để tường tận sự việc sẽ giúp ích như thế nào.

Cần phải nói thêm, ung thư là căn bệnh xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, như do gen di truyền, do tiếp xúc lâu dài với hóa chất độc hại, chất phóng xạ, do một số nguyên nhân liên quan đến lối sống (uống rượu bia nhiều, hút thuốc lá, căng thẳng và mất ngủ kéo dài…). Bên cạnh đó, có một nguyên nhân gây ung thư liên quan đến chế độ dinh dưỡng, thói quen ăn uống, sử dụng thực phẩm. Ví dụ như một số loại nấm mốc trong gạo bị lên mốc, thực phẩm khô lên mốc, rất dễ gây ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm chí có thể dẫn đến ung thư gan.

Nếu nói chung chung một thực phẩm không bị hư hỏng nào đó 'ăn nhiều gây ung thư' thì lại là không đúng.

Tuy nhiên, nếu nói chung chung một thực phẩm không bị hư hỏng nào đó 'ăn nhiều gây ung thư' thì lại là không đúng. Ví dụ như những 'tin đồn': thực phẩm đóng hộp gây ung thư, thịt xông khói gây ung thư, khoai tây chiên gây ung thư, mì gói gây ung thư… vốn rất phổ biến, lại cần hiểu một cách đầy đủ và chính xác.

Theo PGS TS Nguyễn Duy Thịnh, chúng ta nên hiểu rằng, thực phẩm nào cũng chứa một lượng chất độc hại nhất định.

PGS TS Nguyễn Duy Thịnh nhấn mạnh, thực phẩm nào cũng luôn có hai mặt tốt và xấu, mọi người nên bình tĩnh và tránh tâm lý hoang mang trước thông tin thực phẩm này, thực phẩm kia chứa chất gây ung thư hoặc có hại cho sức khỏe.

Theo ông, chúng ta nên hiểu đúng rằng, thực phẩm nào cũng vậy, ngay cả thực phẩm tự nhiên cũng chứa thành phần, hàm lượng nhất định chất gây hại, tuy nhiên ở ngưỡng cho phép (theo quy định của pháp luật) thì là an toàn. Song song đó, hằng ngày, chúng ta hít khói xe có nhiễm chất gây hại, hít khói thuốc lá, uống nguồn nước có nhiễm hóa chất, ăn các thực phẩm rau quả cá thịt phần lớn đều có tồn dư của thuốc trừ sâu, của chất hóa học… Nhưng điều quan trọng là, con người tiếp xúc với các chất này ở mức độ nào, có liên tục, thường xuyên, có ở hàm lượng rất cao (vượt quá ngưỡng an toàn) hay không, vì chỉ trong những điều kiện như vậy, chúng mới gây ảnh hưởng rõ nét đến sức khỏe.

Ví dụ chúng ta biết rằng kim loại nặng như Arsen, Cadmi, chì, thủy ngân đều là chất độc, có thể gây ngộ độc cấp tính và mãn tính nhưng chúng vẫn có mặt trong nhiều thực phẩm mà thực phẩm này vẫn được coi là an toàn (khi ở trong giới hạn cho phép).

Có thể hiểu rằng, mỗi ngày chúng ta đều vô tình tiếp xúc với một số 'chất gây hại' ngay trong các thực phẩm tự nhiên, nhưng ở giới hạn cho phép thì chúng vẫn được xem là thực phẩm an toàn. Cơ thể có thể dễ dàng tự đào thải các 'chất gây hại' này mà không để lại ảnh hưởng nào. Bên cạnh đó, có những thực phẩm vốn được xem là rất tốt cho cơ thể, ví dụ như lá tía tô được xem là một thảo dược tự nhiên giúp giải độc. Song, nếu ăn một lượng lớn lá tía tô, uống nước lá tía tô ép đậm đặc từ ngày này sang ngày khác thì lại có thể gây hại, gây tăng huyết áp, ảnh hưởng hệ tim mạch…

Rõ ràng, chúng ta không nên đánh giá chủ quan 'thực phẩm tốt''thực phẩm xấu' và lạm dụng ăn quá nhiều hoặc né tránh hẳn, sợ hãi một cách không cần thiết. Chế độ dinh dưỡng khoa học được khuyến khích luôn là ăn đa dạng, kết hợp nhiều nhóm dưỡng chất khác nhau. Ngoài ra, nên chú ý đến các yếu tố khác trong lối sống như vận động thường xuyên, tránh căng thẳng để bảo vệ sức khỏe, ngăn ngừa ung thư.

Vì sao có quốc gia quy định, có quốc gia không?

Quay trở lại câu chuyện 'chất gây hại''chất gây ung thư', không chỉ là vấn đề người tiêu dùng quan tâm mà ở cấp độ cao hơn, các quốc gia khác nhau cùng có cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau về việc này.

TS BS Trương Hồng Sơn, Viện Trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam cho biết, mỗi quốc gia có những quy định an toàn vệ sinh thực phẩm khác nhau, do có sự khác nhau về cơ địa, thói quen sinh hoạt ăn uống của người dân, môi trường, điều kiện khí hậu, điều kiện nuôi trồng của nguồn nguyên liệu ban đầu. Luật được đặt ra để bảo vệ sức khỏe của người dân quốc gia đó, và cũng đã được nghiên cứu sâu rộng, đối chiếu với luật quốc tế.

Theo TS BS Trương Hồng Sơn mỗi quốc gia có những quy định an toàn vệ sinh thực phẩm khác nhau.

Lấy một trường hợp cụ thể như câu chuyện về chất Ethylene Oxyde (EO) dạo gần đây được nhiều người nhắc đến. Việc sử dụng EO để khử trùng từ lâu đã được chấp nhận ở Việt Nam và nhiều nước khác do khả năng khử khuẩn hiệu quả. EO được sử dụng cho các loại máy móc thiết bị chính xác, thiết bị y tế, cũng như được sử dụng nhằm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn đối với các loại gia vị và rau quả. Theo hướng dẫn của FAO (Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc), EO phù hợp cho mục đích tiệt trùng bảo quản các nông sản đặc biệt là rau gia vị vì không làm xáo trộn giá trị dinh dưỡng cũng như không làm biến đổi màu sắc, mùi vị và kết cấu của chúng.

Tuy nhiên, từ nửa cuối năm 2020, EO dường như trở thành một vấn đề tại Châu Âu, ngay cả tại Việt Nam, vấn đề cũng xoay quanh các sản phẩm xuất khẩu. Châu Âu không phải tuyệt đối không cho phép sự hiện diện của EO tổng (bao gồm EO và 2-CE) trong sản phẩm mà thay vào đó họ vẫn chấp thuận sự hiện diện này ở các hàm lượng phát hiện rất nhỏ và đồng thời khuyến khích việc giảm hàm lượng phát hiện xuống càng nhỏ càng tốt. Trong khi các quốc gia khác như Mỹ, Canada, Singapore, Ấn Độ thì lại cho phép hàm lượng tồn dư tối đa trong thực phẩm cao hơn nhiều lần so với Châu Âu và tách riêng quy định cho EO và 2 –CE. Nguyên nhân là vì EO có thể ngăn ngừa tình trạng thực phẩm bị nhiễm khuẩn như E.coli, Samonella..., nên phương châm của các quốc gia này là vẫn sử dụng EO với mục tiêu 'sử dụng chất hóa học nếu trong phạm vi kiểm soát thì còn tốt hơn sản phẩm bị nhiễm khuẩn'. Với hầu hết các nước châu Á, ngay cả Codex cũng chưa có quy định về việc sử dụng EO.

Vậy có phải có quy định thì là tốt mà chưa hoặc không có quy định thì là không tốt? TS.BS. Trương Hồng Sơn cho biết thêm, không có 'luật tốt' và 'luật không tốt', mà chỉ có 'luật tốt' và 'luật tốt hơn', vì mục đích của các tiêu chuẩn làm ra là để bảo vệ sức khỏe của người dân ở quốc gia đó.

Trên thực tế, một số quy định về thực phẩm của Việt Nam cũng cao hơn một số nước khác. Chẳng hạn, tiêu chuẩn về chất bảo quản Acid Benzoic trong quả khô Nhật là 1g/kg thì của Việt Nam chỉ là 0,8g/kg. Hay tiêu chuẩn về Butyl hydroxy toluen (BHT- chất chống oxy hóa) với hải sản đông lạnh của Nhật là 1g/kg thì tiêu chuẩn với cá, cá phi lê, sản phẩm thủy sản đông lạnh của nước ta là 0,2 g/kg.

Tham khảo thêm thông tin bài viết: Thực phẩm bẩn hủy hoại cơ thể như thế nào?

Bạch Dương - Theo Đại Đoàn Kết
Bình luận
Tin mới
  • 04/12/2025

    Loãng xương ở phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh

    Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!

  • 04/12/2025

    Ai không nên ăn thịt lợn nọng?

    Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.

  • 04/12/2025

    Sự thật về tóc bạc

    Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.

  • 03/12/2025

    Có nên dùng ‘đường ăn kiêng’ để giảm cân?

    Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?

  • 03/12/2025

    Viêm xoang trong mùa đông

    Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.

  • 02/12/2025

    Eswatini – Quốc gia đầu tiên trên thế giới triển khai mũi tiêm phòng HIV hai lần mỗi năm

    Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.

  • 02/12/2025

    4 lợi ích nổi bật nhất của rau càng cua với sức khỏe

    Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.

  • 02/12/2025

    Các dấu hiệu nhận biết đột quỵ vào mùa đông

    Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.

Xem thêm