Viêm mạch và đau hạt dị ứng còn gọi là hội chứng Churg Strauss (HCCS). Bệnh gây tổn thương phổi, da, tim mạch, dạ dày ruột, thận, thần kinh trung ương. Chẩn đoán HCCS gặp nhiều khó khăn vì từng biểu hiện của hội chứng thường xuất hiện riêng biệt nhau.
Đến nay căn nguyên của HCCS chưa được biết, người ta cho rằng bệnh xảy ra do quá trình tự miễn, với sự nổi bật của các triệu chứng dị ứng như viêm mũi dị ứng, hen, miễn dịch tế bào T tăng, miễn dịch dịch thể bị thay đổi, tăng gamma globulin máu, tăng yếu tố thấp...
Hội chứng Churg Strauss diễn ra với các giai đoạn kế tiếp nhau:
Giai đoạn tiền triệu khi bệnh nhân 20-30 tuổi, đặc trưng bởi viêm mũi dị ứng và hen.
Tiếp theo tăng bạch cầu ái toan: bạch cầu ái toan tăng ở máu ngoại biên và ở nhiều cơ quan, nhất là ở phổi và ống tiêu hóa.
Cuối cùng là viêm mạch: viêm mạch hệ thống ở các mạch máu trung bình và nhỏ xảy ra khi bệnh nhân 30-50 tuổi, với đa u hạt mạch máu và ngoài mạch. Bệnh nhân có thể có sốt, giảm cân, khó ở, mệt mỏi.
Hen xảy ra ở trên 95% bệnh nhân mắc HCCS, thường xuất hiện trước khi viêm mạch khoảng 8-10 năm. Nhưng cũng có khi HCCS xảy ra cùng lúc với hen xuất hiện lần đầu. Hen mạn tính phải điều trị lâu dài. Khi viêm mạch, độ nặng và số đợt trở nặng của hen càng tăng.
Tuy nhiên, có ít bệnh nhân triệu chứng hen giảm ở giai đoạn đầu của viêm mạch. Điều trị hen kéo dài với corticosteroid có thể làm lu mờ một phần hoặc toàn bộ triệu chứng của HCCS, nên hội chứng này có thể không có biểu hiện cho đến khi ngưng hoặc giảm liều steroid điều trị hen.
Viêm mũi dị ứng rất thường gặp ở HCCS, với các biểu hiện: tắc mũi, viêm xoang tái phát, polyp mũi, có thể xảy ra trước hen. Các biến chứng hay gặp là: lồi mắt có thể phục hồi, viêm tai mạn tính, mất nghe hoặc giảm thính lực.
Tổn thương da: là một biểu hiện thường gặp nhất của viêm mạch trong HCCS. Trên 60% bệnh nhân HCCS có tổn thương da, thường ở dạng các nốt dưới da trên mặt duỗi của cánh tay, nhất là khuỷu, bàn tay, chân. Tổn thương hay gặp là: nổi ban sờ thấy được, hồng ban dát hoặc sẩn, xuất huyết, từ chấm xuất huyết đến khối xuất huyết lan rộng, nốt mềm ở da hoặc dưới da, với u hạt trên mẫu sinh thiết.
Bệnh tim mạch với biểu hiện: viêm màng ngoài tim cấp ở 32% bệnh nhân, viêm màng ngoài tim co thắt, suy tim ở 47% bệnh nhân, nhồi máu cơ tim... nói chung bệnh tim mạch gây ra khoảng ½ trường hợp tử vong do HCCS.
Bệnh thần kinh: viêm đơn dây thần kinh nhiều ổ gặp ở 75% bệnh nhân HCCS, nếu không điều trị, có thể diễn tiến sang bệnh đa dây thần kinh đối xứng hay không đối xứng; xuất huyết và nhồi máu não là các nguyên nhân thường gây tử vong.
Bệnh thận: viêm thận cầu thận khu trú từng phần ở 85% ca bệnh thường đi kèm hoại tử. Tăng huyết áp gặp ở 29% bệnh nhân, có thể phản ánh tần số nhồi máu thận ở HCCS, suy thận xảy ra dưới 10% bệnh nhân.
Bệnh đường tiêu hóa: viêm dạ dày ruột với triệu chứng đau bụng ở 59% bệnh nhân, tiêu chảy ở 33%, xuất huyết dạ dày ruột ở 18% bệnh nhân, viêm đại tràng, có thể đi trước hay đồng thời với viêm mạch.
Bệnh cơ xương: đau cơ, đau đa khớp di chuyển và viêm khớp gặp trong viêm mạch của HCCS.
Các biểu hiện khác gồm: thiếu máu đẳng sắc, tốc độ lắng hồng cầu tăng, tăng bạch cầu, tăng IgE theo hoạt tính của quá trình viêm mạch; tăng gamma globulin máu; yếu tố thấp dương tính ở chuẩn độ thấp...
Chụp X-quang thấy các hình ảnh tổn thương: phổi mờ thoáng qua và rải rác ở 75% bệnh nhân, không phân bố theo phân thùy hay vùng, mờ đối xứng ở vùng nách và ngoại biên, mờ tỏa ra từ rốn phổi kèm bệnh tuyến ở rốn phổi, mờ mô kẽ hay đốm nhỏ lan tỏa, xuất huyết phổi gây mờ rộng, bệnh nốt 2 bên, không tạo hang, tràn dịch màng phổi, gặp ở 30% bệnh nhân, thường dịch tiết và tăng bạch cầu ái toan.
Chụp CT scan thấy động mạch phổi ngoại biên phình rộng đáng kể so với phế quản tương ứng. Chụp mạch máu ở HCCS cho thấy phình mạch ở gan và thận.
Đa số bệnh nhân HCCS đáp ứng tốt với corticosteroid liều cao, từ 0,5 - 1,5mg/kg trong 6 - 12 tuần hoặc cho đến khi bệnh đã ổn định. Hiếm gặp tái phát muộn sau khi đã điều trị thành công. Vì vậy, việc điều trị có thể được chấm dứt ở hầu hết bệnh nhân. Nhưng nếu ngưng điều trị sớm có thể dẫn đến tái phát.
Trước khi dùng steroid, có khoảng 50% bệnh nhân không điều trị tử vong trong vòng 3 tháng khởi phát viêm mạch. Hầu hết tử vong do biến chứng của viêm mạch, do: suy tim và/hoặc nhồi máu cơ tim, xuất huyết não, suy thận, xuất huyết dạ dày ruột, cơn hen ác tính.
Bệnh nhân cần được tuyên truyền để hiểu biết về HCCS sớm chuẩn bị tốt hơn để đối phó với các biến chứng và tái phát. Vì là bệnh mạn tính phức tạp nên bệnh nhân cần tham gia nhóm hỗ trợ của những người mắc hội chứng để được bổ sung thêm hiểu biết và sự tư vấn của những bệnh nhân khác nhằm sống chung với bệnh tốt hơn.
Do phải điều trị corticoid kéo dài nên bệnh nhân cần ăn nhiều trái cây, rau củ, ngũ cốc là những thức ăn giúp dự trữ và ổn định đường huyết. Bảo vệ xương bằng các biện pháp: tăng cường bổ sung canxi và vitamin D trong khẩu phần ăn hằng ngày; tập thể dục đều đặn để duy trì trọng lượng chống tăng cân do corticoid giữ nước và giúp đối phó với các cơn đau tốt hơn.
Tình trạng thiếu vitamin D ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ rất phổ biến và có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.
Mái tóc khỏe đẹp, mượt mà phản ánh tình trạng sức khỏe. Khi cơ thể thiếu một số chất sẽ khiến mái tóc yếu rụng... Dưới đây là một số nhóm thực phẩm giúp mái tóc mượt.
Hội chứng Apert là một rối loạn di truyền hiếm gặp gây ra sự phát triển bất thường của sọ. Trẻ em mắc hội chứng Apert được sinh ra với hình dáng sọ và khuôn mặt biến dạng, đi cùng nhiều khuyết tật khác. Phẫu thuật tạo hình có thể giúp sửa một số bất thường xương mặt.
Bạn có biết Vitamin D rất quan trọng với sức khoẻ nhưng nhiều người lại thiếu hụt? Hãy cùng tìm hiểu những loại thực phẩm chứa hàm lượng vitamin D cao nhất, giúp bạn dễ dàng bổ sung vào chế độ ăn hàng ngày.
Viêm loét đại tràng là một căn bệnh mạn tính, nhưng bạn có thể kiểm soát được và chung sống với căn bệnh này. Bác sĩ sẽ làm việc với bạn để tìm ra phương pháp điều trị giúp kiểm soát các triệu chứng và ngăn ngừa chúng tái phát.
Vitamin K rất cần thiết cho trẻ sơ sinh, và tình trạng thiếu hụt vitamin K ở trẻ sơ sinh xảy ra phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Vậy trong giai đoạn này, nên bổ sung vitamin K dưới dạng K1 hay K2 cho trẻ? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Việc ngâm mình trong một vùng nước tự nhiên ấm áp, với tiếng chim hót xung quanh và không khí trong lành bên ngoài có thể giúp bạn cảm thấy thư giãn. Đôi khi một số người còn tin rằng tắm khoáng nóng giúp giảm cân. Vậy điều đó có đúng không? Cùng tìm hiểu câu trả lời và khám phá các lợi ích sức khỏe có thể có khi tắm khoáng nóng cùng Bác sĩ Dinh dưỡng VIAM nhé.
Vitamin D có những vai trò rất quan trọng trọng việc hấp thu canxi, tham gia vào nhiều chức năng khác như tạo xương, miễn dịch, tăng trưởng. Việc thiếu hay thừa vitamin D đều để lại những ảnh hưởng tới sức khỏe của trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ sơ sinh. Bổ sung vitamin D là điều được nhiều chuyên gia y tế khuyến cáo, tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ - trong đó vitamin D3 là dạng bổ sung được khuyến nghị tốt nhất.