Chấn thương khi sinh là gì?
Trong suốt quá trình sinh nở, các áp lực về mặt cơ học, ví dụ như lực né, lực co thắt có thể sẽ dẫn đến một số tổn thương ở trẻ sơ sinh. Những tổn thương này được gọi là chấn thương khi sinh.
Nguyên nhân của các chấn thương khi sinh là gì?
Các chấn thương khi sinh có thể là chấn thương về mặt vật lý, ví dụ như vết rách, vết bầm, gãy xương, thậm chí là một số tình trạng mãn tính khác. Đa số các quốc gia đang phát triển, như các nước châu Phi và châu Á sẽ có số lượng các ca chấn thương khi sinh cao hơn. Tuy vậy, ngay cả ở Mỹ, tỷ lệ chấn thương khi sinh cũng có thể lên tới 2%, và đa số đó là các chấn thương về mặt vật lý.
Nguyên nhân chính của các chấn thương khi sinh là do sức nặng của em bé. Rất nhiều em bé lớn hơn so với mặt bằng chung, về cân nặng, cũng như kích thước so với khung chậu của mẹ, do vậy những trẻ này sẽ dễ mắc phải các chấn thương khi sinh hơn. Ngoài ra, trong khi sinh, các bác sỹ cũng có thể sẽ sử dụng một số dụng cụ để tạo áp lực đẩy em bé ra ngoài. Nếu không thận trọng và sử dụng lực quá lớn, thì điều này cũng có thể sẽ gây ra các chấn thương khi sinh cho em bé. Dưới đây là một số trường hợp thường gặp phải các chấn thương khi sinh:
Đa số các chấn thương khi sinh đều xảy ra với đầu, cổ hoặc vai em bé vì đây là những phần cơ thể sẽ ra trước, nhưng chấn thương khi sinh cũng có thể sẽ xảy ra với các phần các của cơ thể. Dưới đây là những chấn thương khi sinh thường gặp nhất.
Phù nề da đầu
Trong chấn thương này, phần da đầu của em bé sẽ sưng lên hoặc bị bầm tím. Nguyên nhân có thể là do:
U máu đầu (Cephalohematoma)
Đây là tình trạng mà bạn có thể nhìn thấy máu tích tụ lại ở phía dưới màng xương của bé (màng xương là một màng che chắn, giúp bảo vệ hộp sọ của bé). Một vài giờ sau sinh, bạn có thể sẽ nhận thấy hiện tượng này xuất hiện trên đầu của trẻ.
Trong đa số các trường hợp, đây là tình trạng không gây nguy hiểm và sẽ giảm đi sau một vài tuần hoặc một vai tháng. Máu tụ sẽ được hấp thu ngược lại vào cơ thể, và khiến khối u máu biến mất. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu khối u máu quá lớn thì u máu đầu có thể sẽ dẫn đến tình trạng vàng da.
Bầm tím
Bầm tím có thể xảy ra tại mặt, cổ, đầu và/hoặc các phần khác của cơ thể vì các lý do sau:
Xuất huyết dưới kết mạc
Bạn có thể quan sát thấy một vòng tròn màu đỏ bao quanh con ngươi (lòng đen) trong mắt trẻ sơ sinh. Tình trạng này được gọi là xuất huyết dưới kết mạc. Khi một vài mạch máu nhỏ bị vỡ ở trong mắt của trẻ sẽ làm hình thành một vòng tròn màu đỏ quanh con ngươi. Đây chỉ là tình trạng xảy ra tạm thời và trong vòng vài tuần hoặc vài tháng, vòng tròn màu đỏ này sẽ biến mất vì cơ thể sẽ hấp thu máu ngược trở lại.
Liệt mặt
Đây là tình trạng mà các dây thần kinh mặt của trẻ sơ sinh bị tổn thương trong quá trình chuyển dạ hoặc sinh nở. Nguyên nhân của sự tổn thương này là do:
Triệu chứng:
Hồi phục
Chấn thương thần kinh cánh tay
Thần kinh cánh tay là một mạng lưới thần kinh kết nối tủy sống với cánh tay và bàn tay của trẻ. Một tổn thương xảy ra tại bất cứ vị trí nào của mạng lưới thần kinh này cũng sẽ được gọi là chấn thương thần kinh cánh tay. Chấn thương này có thể xảy ra do các biến chứng khi sinh, ví dụ như vai của trẻ bị mắc vào đường dẫn sinh và bác sỹ buộc phải dùng lực để kéo được trẻ ra ngoài
Triệu chứng: trẻ không thể di chuyển hoặc quay bên tay bị chấn thương được.
Hồi phục: Nếu chấn thương chỉ gây ra vết bầm tím thì vết thương sẽ tự hồi phục sau vài tuần hoặc vài tháng. Còn nếu có tổn thương toàn bộ thần kinh, thì hậu quả sẽ là suốt đời.
Thiếu oxy
Tình trạng này xảy ra khi em bé không lấy đủ oxy trong suốt quá trình chuyển dạ, trước sinh và sau sinh. Nguyên nhân có thể là do:
Di chứng: Thiếu oxy có thể dẫn đến tổn thương tiểu não (là phần não chịu trách nhiệm cho các hoạt động chức năng của cơ thể. Thiếu oxy cũng có thể sẽ dẫn đến bại não, khiến trẻ không thể kiểm soát cử động, khối cơ hoặc tư thế của trẻ. Thiếu oxy cũng sẽ ảnh hưởng đến thính lực của trẻ và sẽ khiến trẻ bị mù một phần hoặc hoàn toàn. Nếu trẻ không thở được trong vòng 3 phút, thì có thể dẫn đến hậu quả là tổn thương các tế bào não và gây ra tình trạng co giật hoặc hôn mê.
Gãy xương
Đây là chấn thương khi sinh phổ biến nhất. Tỷ lệ gãy xương của trẻ sẽ tăng lên nếu ngôi thai không ở vị trí lý tưởng. Triệu chứng: trẻ sẽ không thể cử động được phần cơ thể bị gãy xương. Việc bó bột có thể sẽ giúp ngăn ngừa được những tổn thương nhiều hơn và giúp chỗ gãy xương được hồi phục.
Mặc dù nghe tên các chấn thương khi sinh có vẻ đáng sơ, nhưng đa số những chấn thương này đều có thể tự hồi phục. Tuy nhiên, mức độ hồi phục cũng sẽ phụ thuộc rất nhiều vào từng trẻ và mức độ nghiêm trọng của chấn thương. Các bác sỹ thường có thể sẽ nhìn thấy trước những nguy cơ của trẻ và thực hiện các biện pháp dự phòng để tránh khỏi các chấn thương khi sinh.
Tầm vóc không chỉ là thước đo chiều cao đơn thuần mà còn phản ánh sức khỏe và sự phát triển toàn diện của một dân tộc. Tuy nhiên, thực trạng chiều cao của người Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế so với bạn bè quốc tế
Mùa xuân đến, mang theo không khí ấm áp và sức sống mới cho vạn vật. Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm giao mùa, khí hậu biến đổi thất thường, tạo điều kiện cho các loại vi khuẩn, virus và mầm bệnh sinh sôi phát triển.
Ngày 2 tháng 4 hàng năm, thế giới cùng hướng về Ngày Thế Giới Nhận Thức về Tự Kỷ – một sự kiện do Liên Hợp Quốc khởi xướng nhằm kêu gọi sự quan tâm sâu sắc hơn đến rối loạn phổ tự kỷ (ASD).
Mùa xuân là thời điểm giao mùa, khí hậu thất thường, hanh khô, độ ẩm thấp, dễ gây ra những ảnh hưởng không tốt đến làn da nhạy cảm của trẻ nhỏ.
Tuổi mãn kinh không chỉ gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe sinh lý nữ, mà còn ảnh hưởng đến làn da. Chị em phụ nữ nên lưu ý điều gì khi chăm sóc da tuổi ngoài 40?
Giao mùa là thời điểm chuyển tiếp giữa các mùa trong năm, kéo theo sự thay đổi của thời tiết, khí hậu. Đối với người cao tuổi, giai đoạn này thường tiềm ẩn nhiều nguy cơ sức khỏe do hệ miễn dịch suy giảm và cơ thể dần lão hóa.
Một nghiên cứu mới cho thấy, hoạt động thể chất vừa phải như đi bộ nhanh, yoga, làm vườn… mỗi ngày có thể giúp giảm nguy cơ tử vong.
Các vấn đề dạ dày khi chạy bộ là một trong những nguyên nhân phổ biến gây khó chịu cho người chạy. Bạn có thể gặp tình trạng co thắt, đau bụng dẫn đến tiêu chảy trong khi chạy.