Tăng cường trước biến thể của virus
Trong một nỗ lực để đảm bảo hiệu quả của vaccine COVID-19 nhằm chống lại các biến thể mới của virus, hai công ty Pfizer và Moderna đều đang thử nghiệm mũi tiêm nhắc lại thứ ba đối với vaccine hai liều tương ứng của họ.
Vào ngày 25 tháng 2, Pfizer thông báo rằng họ đang nghiên cứu liều nhắc lại thứ ba ở một số người đã tiêm liều vaccine đầu tiên trong khoảng thời gian hơn sáu tháng trước. Công ty này đặc biệt tuyên bố rằng các biến thể mới hiện nay và trong tương lai của virus SARS-CoV-2 chính là mục đích cho nghiên cứu lần này. Pfizer cũng cho biết, họ đang khám phá khả năng có một loại vaccine mới hoàn toàn, một biến thể cụ thể của vaccine để nhắm trực tiếp vào biến thể B.1.351 – biến thể Nam Phi có khả năng lây nhiễm cao.
Hãng sản xuất Moderna cũng thông báo rằng họ đã hoàn thành việc sản xuất một loại vaccine biến thể cụ thể để nhắm vào biến thể B.1.351, và công ty này đã sẵn sàng bắt đầu thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1 của vaccine này. Moderna nói rằng họ sẽ khám phá việc sử dụng vaccine mới này như một liều tăng cường cho những người đã được tiêm chủng. Moderna lưu ý rằng mũi tiêm tăng cường này cũng sẽ được phân tích trong thử nghiệm lâm sàng để xem liệu nó có thể tăng cường khả năng miễn dịch chống lại các biến thể khác đang rất được quan tâm hay không.

Hiện nay, cả 2 loại vaccine của Pfizer và Moderna đều sử dụng một loại công nghệ mới được gọi là vaccine RNA (mRNA – RNA thông tin). Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ (CDC), vaccine mRNA cung cấp cho các tế bào của cơ thể những định hướng để cơ thể tự phát triển một đoạn protein duy nhất đặc hiệu cho virus SARS-CoV-2. Hệ thống miễn dịch khi đó nhận ra những mảnh protein mới này là những tác nhân lạ xâm nhập vào cơ thể và tự tạo ra phản ứng miễn dịch để chống lại những gì được cho là nguy hiểm (mặc dù thực chất không có mối đe dọa nào đến cơ thể). Điều này khiến cơ thể phát triển các kháng thể đặc hiệu với SARs-CoV-2 và giúp chống lại tình trạng nhiễm bệnh trong thời gian sau tiêm.
Bản thân cơ thể cuối cùng cũng sẽ loại bỏ cả mRNA và protein, nhưng các kháng thể vẫn được giữ lại. Tuy nhiên, chúng tồn tại trong bao lâu vẫn đang được nghiên cứu thêm.
Hiệu quả của 2 loại vaccine như thế nào?
Cả hai loại vaccine đều có hiệu quả cao trong các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3. Nghiên cứu từ thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 của Pfizer cho thấy vaccine này có hiệu quả 52% ngay sau liều đầu tiên và đạt hiệu quả khoảng 95% sau liều thứ hai ở người lớn từ 16 tuổi trở lên.
Trong kết quả thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 của Moderna và được công bố trên Tạp chí Y học New England cho thấy, vaccine của công ty này có hiệu quả chống lại COVID-19 khoảng 94,1% ở những người từ 18 tuổi trở lên.
Tuy nhiên, các thử nghiệm này đều được tiến hành trước khi các biến thể của virus như B.1.1.7 – lần đầu tiên được phát hiện ở Anh và B.1.351 – biến thể ở Nam Phi bắt đầu lây lan nhanh chóng. Nói cách khác, có khả năng hiệu quả của các vaccine này có thể thấp hơn những gì được công bố từ nhiều tháng. Với các nghiên cứu mới đang được tiến hành, cả Pfizer và Moderna đều đang cố gắng đi trước virus để giải quyết câu hỏi: liệu các biến thể có thể ảnh hưởng đến khả năng miễn dịch do vaccine hay không.

Cả hai công ty sản xuất đều gợi ý rằng họ có những lo ngại về những ảnh hưởng của biến thể Nam Phi đối với hiệu quả của vaccine, cũng như khả năng các biến thể trong tương lai có thể khiến vaccine kém hiệu quả hơn.
Theo các chuyên gia, một là cải tiến vaccine - hai là bổ sung một sản phẩm tăng cường khác với cùng một công thức. Tạo sản phẩm tăng cường có thể làm tăng kháng thể và tế bào T (một loại tế bào bạch cầu - phần thiết yếu của hệ thống miễn dịch) đủ để giúp giải quyết các biến thể của chủng SARS-CoV-2. Tất nhiên, một mũi tiêm nhắc lại có thể làm cho một loại vaccine đã có hiệu quả thậm chí còn hiệu quả hơn. Cả hai công ty đang cố gắng xem liệu họ có thể đạt được hiệu quả gần 100% hay không.
Nhìn chung, các chuyên gia khuyến nghị ưu tiên hàng đầu vẫn là mọi người đều được tiêm vaccine. Điều này mang lại những tác động đến tất cả các biến thể virus dù ít hay nhiều.
Tham khảo thêm thông tin tại: So sánh bản chất 3 loại vaccine Covid-19 của Pfizer-BioNTech, Moderna và Johnson&Johnson
Uống một thìa dầu ô liu giúp bôi trơn đường ruột và hoạt động như một chất nhuận tràng tự nhiên nhẹ. Dầu ô liu kích thích nhu động ruột, làm mềm phân, từ đó giúp giảm táo bón và hỗ trợ tiêu hóa diễn ra trơn tru hơn.
Tăng cholesterol có thể làm tăng huyết áp vì nó góp phần hình thành mảng bám trong động mạch (xơ vữa động mạch). Huyết áp cao có thể xảy ra do tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu.
Cúm A là một bệnh nhiễm virus cấp tính gây ra các triệu chứng khó chịu như sốt cao, đau họng, nhức mỏi toàn thân và mệt mỏi. Chế độ ăn uống khoa học và hợp lý là yếu tố nền tảng giúp tăng cường sức đề kháng, giảm nhẹ triệu chứng, rút ngắn thời gian hồi phục.
Mức collagen bạn nên bổ sung phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ ăn uống, tuổi tác, sức khỏe tổng thể và loại thực phẩm bổ sung. Liều dùng hàng ngày từ 2,5 đến 15 gram có thể an toàn và hiệu quả nếu bạn cần bổ sung collagen cho cơ thể.
Hội chứng ống cổ tay ảnh hưởng tới khoảng 50-60% phụ nữ mang thai và thường gặp ở ba tháng cuối của thai kỳ. Hội chứng này có thể gây ra một số triệu chứng khó chịu cho thai phụ và có thể tự hết sau sinh vài tuần. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp khó chịu mà bạn cần tới gặp bác sĩ ngay. Cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây!
Đây là một hiểu nhầm khá thú vị bởi đàn ông thường cho mình là phái mạnh, loãng xương là bệnh của phải yếu – chị em mới bị loãng xương!
Khi trời lạnh, cơ thể trở nên nhạy cảm hơn trước sự tấn công của các loại virus gây bệnh đường hô hấp. Việc duy trì thói quen uống một ly nước chanh gừng ấm vào buổi sáng là liệu pháp tự nhiên tuyệt vời giúp kích hoạt hệ miễn dịch và giữ ấm cơ thể từ bên trong.
Không gian sinh hoạt hàng ngày của chúng ta càng trở nên quan trọng hơn trong những tháng mùa đông khi chúng ta thường xuyên phải ở trong nhà để tránh xa cái lạnh. Khi các tòa nhà được bịt kín để giữ nhiệt trong mùa đông, các chất ô nhiễm có khả năng gây hại cũng bị giữ lại bên trong. Do đó, điều quan trọng là phải đảm bảo không khí bên trong các tòa nhà đó an toàn để hít thở với nồng độ chất ô nhiễm không khí trong nhà thấp hoặc không có, đặc biệt là những chất có thể gây ung thư hoặc khiến cơ thể dễ mắc bệnh hơn.