Theo các phân tích sơ bộ cho thấy, ít nhất vẫn có một số loại vaccine có khả năng mang đến tác dụng ngăn chặn sự lây truyền virus. Tuy nhiên, việc xác định tác động đó – cũng như mức độ mạnh mẽ của khả năng này – thực sự rất khó, vì tỉ lệ nhiễm virus nếu giảm trong một khu vực nhất định có thể được giải thích bởi rất nhiều yếu tố khác nhau như cách ly toàn bộ khu vực đó hay những thay đổi hành vi tránh tiếp xúc của những người trong khu vực cách ly. Không chỉ vậy, virus còn có thể lây lan từ những người mang mầm bệnh nhưng không có triệu chứng, nên rất khó phát hiện ra những trường hợp này.
Ngăn nhiễm virus?
Mặc dù hầu hết các thử nghiệm lâm sàng về vaccine COVID-19 cho thấy vaccine ngăn ngừa bệnh tiến triển nặng, tuy nhiên một số kết quả thử nghiệm cũng đưa ra các manh mối rằng các mũi tiêm có thể ngăn ngừa nhiễm virus. Theo các chuyên gia về vaccine cho biết, nếu một loại vaccine có hiệu quả cao trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng ngay từ đầu, chúng sẽ giúp giảm sự lây lan của bệnh.

Thử nghiệm ở Anh về loại vaccine do Đại học Oxford và AstraZeneca sản xuất (thực hiện xét nghiệm cho những người tham gia mỗi tuần) đã ước tính giảm 49,3% các trường hợp nhiễm virus nhưng không có triệu chứng ở một nhóm nhỏ những đối tượng được tiêm chủng so với nhóm đối tượng không được tiêm chủng. Tượng tự, Pfizer – công ty có trụ sở tại New York và là nhà sản xuất vaccine COVID-19 hàng đầu thông báo rằng họ sẽ bắt đầu kiểm tra người tham gia nghiên cứu hai tuần một lần trong các thử nghiệm vaccine đang diễn ra ở Mỹ và Argentina để đánh giá xem liệu mũi tiêm có thể ngăn ngừa nhiễm virus hay không.
Ít lây nhiễm hơn?
Có thể vaccine sẽ không ngăn chặn hoặc làm giảm được đáng kể nguy cơ bị nhiễm virus, xong việc tiêm vaccine có thể giúp những người bị nhiễm trở nên ít khả năng lan truyền virus hơn/hoặc làm cho họ ít lây nhiễm hơn, kéo theo giảm khả năng lây truyền cộng đồng.
Một số nhóm nghiên cứu ở Israel đang đo tải lượng virus – chỉ số đánh giá nồng độ của các hạt virus - ở những người được tiêm chủng nhưng sau đó có kết quả dương tính với SARS-CoV-2. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng tải lượng virus là một đại diện tốt để đánh khả năng lây nhiễm. Trong quá trình nghiên cứu sơ bộ, nhóm đã quan sát thấy sự sụt giảm đáng kể tải lượng virus khi so sánh ở một số ít người bị nhiễm virus trong 2-4 tuần đầu sau khi nhận liều vaccine Pfizer đầu tiên, so với những người nhiễm virus trong hai tuần đầu sau khi tiêm mũi 2. Những dữ liệu này mang đến sức hấp dẫn và gợi ý rằng tiêm chủng có thể làm giảm khả năng lây nhiễm của các trường hợp dương tính với COVID-19, ngay cả khi nó không ngăn ngừa được hoàn toàn sự lây nhiễm. Thử nghiệm của Oxford-AstraZeneca cũng quan sát thấy sự giảm tải lượng virus ở một nhóm nhỏ những người tham gia được tiêm chủng nhiều hơn khi so với nhóm không được tiêm chủng.
Tuy nhiên, vẫn cần thêm các nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa để có thể biết rằng liệu sự giảm tải lượng virus quan sát được này có đủ để làm cho một người nào đó sau khi được tiêm trở nên ít lây nhiễm hơn trong đời thực hay không.

Để thực sự xác định liệu vaccine có ngăn ngừa lây truyền hay không, các nhà nghiên cứu đang theo dõi những trường hợp tiếp xúc gần của những người được tiêm chủng để xem: liệu họ có được được bảo vệ gián tiếp khỏi nhiễm virus từ người bên cạnh hay không.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Nottingham đã kiểm tra các nhân viên chăm sóc sức khỏe người bệnh và những người sống cùng về kháng thể SARS-CoV-2 cũng RNA của virus từ tháng 4 - tháng 8 năm 2020, trong khoảng thời gian của đợt đại dịch đầu tiên. Họ cũng sẽ kiểm tra lại một số người sau khi được tiêm vaccine của Pfizer, cũng như những người tiếp xúc gần gũi với những người được tiêm, những người chưa được tiêm vaccine để xem liệu nguy cơ lây nhiễm có giảm đối với những người có tiếp xúc gần hay không. Nếu nguy cơ giảm, điều đó có nghĩa là vaccine có thể ngăn ngừa sự lây truyền.
Tại Israel, các nhà khoa học cũng đang lên kế hoạch nghiên cứu các hộ gia đình có một thành viên đã được tiêm chủng. Nếu những người này bị nhiễm bệnh, các nhà nghiên cứu có thể xem liệu họ có truyền virus cho các thành viên khác trong gia đình hay không.
Tại Brazil, một cuộc thử nghiệm sẽ phân phối ngẫu nhiên các liều vaccine COVID-19 do công ty dược phẩm Sinovac có trụ sở tại Bắc Kinh sản xuất đến thị trấn Serrana theo từng giai đoạn trong vài tháng. Cách tiếp cận này có thể cho thấy liệu việc giảm tỉ lệ mắc COVID-19 ở những vùng đã được tiêm phòng có góp phần làm giảm sự lây truyền ở những vùng chưa được tiêm hay không. Điều này sẽ chứng minh tác dụng gián tiếp của vaccine.
Tham khảo thêm thông tin tại: Phản đối tiêm chủng và những hệ quả
Vỏ của nhiều loại trái cây và rau củ có chứa các dưỡng chất có lợi cho sức khỏe như chất xơ, vitamin, khoáng chất, chất chống oxy hóa, giúp tăng cường hệ miễn dịch, cải thiện tiêu hóa...
Giấc ngủ là một phần thiết yếu của cuộc sống, chiếm khoảng 1/3 thời gian của chúng ta, mặc dù nó khiến cơ thể dễ bị tổn thương. Điều này là do giấc ngủ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tái tạo năng lượng, duy trì sức khỏe tổng thể, hỗ trợ chức năng não bộ, cải thiện trí nhớ, tăng cường hệ miễn dịch và giảm nguy cơ mắc các bệnh lý nghiêm trọng. Bài viết này sẽ đi sâu vào những lợi ích này và hướng dẫn cách tối ưu hóa giấc ngủ để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Cuộc tranh luận về protein động vật và protein thực vật đã kéo dài từ lâu. Sự khác biệt cốt lõi giữa hai nguồn đạm này là gì và nó ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu sức khỏe?
Việc suy giảm hormone không phải là vấn đề riêng của ai cả, đặc biệt là trong mùa đông. Mùa đông gây ảnh hưởng tới rối loạn hormone và nội tiết tố cả ở nam giới và nữ giới.
Loãng xương là tình trạng giảm mật độ và chất lượng xương, làm tăng nguy cơ gãy và làm thay đổi cấu trúc xương theo thời gian. Hậu quả của loãng xương không chỉ dừng lại ở gãy xương mà còn tạo ra một chuỗi hệ lụy trên nhiều phương diện về mặt lâm sàng, hành vi, thói quen hằng ngày, tâm lý, xã hội và kinh tế.
Uống một thìa dầu ô liu giúp bôi trơn đường ruột và hoạt động như một chất nhuận tràng tự nhiên nhẹ. Dầu ô liu kích thích nhu động ruột, làm mềm phân, từ đó giúp giảm táo bón và hỗ trợ tiêu hóa diễn ra trơn tru hơn.
Tăng cholesterol có thể làm tăng huyết áp vì nó góp phần hình thành mảng bám trong động mạch (xơ vữa động mạch). Huyết áp cao có thể xảy ra do tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu.
Cúm A là một bệnh nhiễm virus cấp tính gây ra các triệu chứng khó chịu như sốt cao, đau họng, nhức mỏi toàn thân và mệt mỏi. Chế độ ăn uống khoa học và hợp lý là yếu tố nền tảng giúp tăng cường sức đề kháng, giảm nhẹ triệu chứng, rút ngắn thời gian hồi phục.