Cơ chế gây tình trạng thừa cân, béo phì là do hậu quả của việc năng lượng nạp vào cơ thể cao hơn so với năng lượng tiêu hao, dẫn đến việc tích lũy ở dạng mỡ và tăng cân. Do vậy, có quan điểm cho rằng, có thể nhịn ăn nhằm tiết chế tối đa năng lượng nạp vào sẽ giúp cho việc giảm cân hiệu quả và hi vọng rằng lượng mỡ thừa đã tích lũy sẽ tiêu biến được.
Tuy nhiên, quan niệm nhịn ăn để giảm cân là sai lầm, gây nhiều hệ lụy trước mắt và lâu dài cho cơ thể.
Ban đầu khi nhịn ăn, cơ thể sẽ điều chỉnh bằng cách kiềm chế sự thèm ăn để giảm cảm giác đói và quen với việc nạp lượng thức ăn ít hơn bình thường, nhưng khi bạn ngừng nhịn ăn, sự thèm ăn sẽ quay trở lại, tăng cường cảm giác đói và gây tình trạng ăn quá nhiều.
Rõ ràng, tuy nhịn ăn là biện pháp giảm cân có vẻ hiệu quả lúc đầu, nhưng không mang đến kết quả dài lâu. Điều này cũng đã được chứng minh qua các nghiên cứu khoa học và nhịn ăn để giảm cân không phải là phương pháp giảm cân an toàn.

Nhịn ăn không phải là biện pháp khoa học để giảm cân.
Khi nhịn ăn, cơ thể sẽ luôn nằm ở trạng thái "đói", và tốc độ chuyển hóa của cơ thể sẽ giảm xuống để tiết kiệm năng lượng. Do vậy, khi nhịn ăn kéo dài, có thể cân nặng giảm xuống nhưng các hoạt động bình thường của cơ thể sẽ bị hạn chế, người nhịn ăn sẽ dễ bị mệt, giảm sức bền, không tươi tỉnh, giảm sự tập trung và giảm trí nhớ, gây tâm trạng tiêu cực, rối loạn giấc ngủ.
Nhịn ăn giảm cân thường kéo theo tình trạng cơ thể bị mất nước, hạ đường huyết. Thức ăn là nguồn quan trọng cung cấp nhu cầu cơ bản về nước, khoáng chất và các chất dinh dưỡng như đạm, tinh bột, mỡ cho cơ thể. Nhịn ăn gây ra tình trạng mất cơ, vì cơ thể bị bỏ đói trước tiên sẽ sử dụng nguồn năng lượng dự trữ trong cơ để đáp ứng với sự thiếu hụt năng lượng và gây tăng tích tụ các sản phẩm chuyển hóa gây độc cho cơ thể.
Việc nhịn ăn để giảm cân thường kéo theo việc bổ sung không đủ nước, thiếu các vi chất cần thiết cho cơ thể như sắt, kẽm, magie… từ đó gây ra những hậu quả do thiếu hụt này như suy dinh dưỡng thậm chí là suy nhược cơ thể, suy kiệt. Cơ thể cũng có thể bị rối loạn các điện giải nghiêm trọng như natri, canxi, kali… có thể gây tụt huyết áp, giảm trương lực cơ, hoặc co cứng cơ.
Nhịn ăn kéo dài sẽ gây ra nhiều vấn đề rối loạn tiêu hóa như là táo bón hoặc tiêu chảy, buồn nôn, đầy hơi, trào ngược dạ dày thực quản. Lượng khẩu phần nạp vào quá ít có thể không kích thích niêm mạc ruột hoạt động tốt cùng với việc cơ thể giảm vận động để tiết kiệm năng lượng, giảm tốc độ chuyển hóa cơ bản gây tình trạng táo bón, đầy hơi, từ đó dễ có biểu hiện ợ hơi, trào ngược dạ dày thực quản và gây hôi miệng, tổn thương men răng…
Việc đói kéo dài cũng làm cho acid trong dạ dày bị dư thừa, dẫn đến tổn thương niêm mạc dạ dày, gây viêm, loét dạ dày, hành tá tràng, gây ợ chua, hơi thở có mùi hôi…

Nhịn ăn kéo dài có thể gây trào ngược dạ dày thực quản.
Nhịn ăn kéo dài cũng gây các tác động bất lợi đối với các tuyến nội tiết trong cơ thể và gây ra những rối loạn tâm lý. Nhiều trường hợp rối loạn kinh nguyệt đã được ghi nhận, thậm chí là tình trạng mất kinh ở những phụ nữ nhịn ăn kéo dài để giảm cân do hậu quả của mất cân bằng nội tiết tố, từ đó có thể gây các rối loạn suy buồng trứng, giảm khả năng sinh sản, thậm chí là vô sinh. Chế độ ăn thiếu năng lượng từ đường có thể gây ra tình trạng giảm nguồn nuôi các tế bào não, giảm tốc độ chuyển hóa và tốc độ dẫn truyền thần kinh, từ đó gây tình trạng mất trí nhớ, giảm tập trung, trầm cảm, lo âu…
Việc giảm cân nên được thực hiện một cách an toàn, nhờ việc điều chỉnh chế độ ăn nhưng cần duy trì nguyên tắc ăn đa dạng, đúng giờ, tăng cường tập luyện thể thao để tiêu hao năng lượng, đạt được sự săn chắc của cơ thể, cải thiện sức bền và chức năng của các cơ quan tim, phổi, tiêu hóa…
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Nhịn ăn gián đoạn có tốt cho việc giảm cân?
Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!
Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.
Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.
Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?
Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.
Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.
Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.