Có hai cách hiến tặng:
Người bệnh có thể cần xét nghiệm để biết thận hiến tặng có hợp với mô và nhóm máu của mình không. Nếu càng phù hợp thì nguy cơ cơ thể đào thải thận ghép (thải ghép) càng giảm. Người bệnh cũng sẽ được đánh giá sức khỏe để đảm bảo không có bệnh nặng về tim phổi hay các bệnh khác chẳng hạn ung thư vì hi vọng kéo dài sự sống không cao.
Thận mới thường bắt đầu hoạt động ngay khi ghép. Phần lớn trường hợp, thận bị bệnh hoặc tổn hại sẽ không phải cắt bỏ trừ khi người bệnh bị nhiễm trùng nặng như viêm bể thận, ung thư thận, hội chứng thận hư hoặc thận đa nang cực lớn.
Sau phẫu thuật
Người bệnh sẽ phải ở lại viện vài ngày sau khi nhận thận ghép. Trong một số trường hợp, cần thời gian để thận ghép sản xuất nước tiểu trong cơ thể bệnh nhân. Người bệnh cần được chẩn đoán và cho thuốc, chẳng hạn thuốc lợi tiểu để thận mới giúp cơ thể tránh thừa nước và muối.
Sau phẫu thuật người bệnh sẽ phải uống thuốc để khống chế hệ miễn dịch. Những thuốc này được sử dụng để giúp cơ thể tránh hiện tượng thải ghép. Người bệnh sẽ cần dùng những thuốc này cho đến hết cuộc đời.
Trong vài tuần hoặc vài tháng đầu tiên sau phẫu thuật, cơ thể người bệnh có thể cố gắng đào thải thận ghép. Điều này được gọi là thải ghép cấp tính, xảy ra ít hơn 20 trên 100 người sau ghép tạng. Phần lớn trường hợp, thải ghép cấp tính được chữa bằng thuốc chống thải ghép (chế ngự miễn dịch).
Thải ghép mãn tính (còn được gọi là thất bại cấy ghép) là một quá trình diễn ra dần dần, chức năng thận dần suy giảm. Quá trình này có thể diễn ra nhiều tháng hoặc vài năm sau phẫu thuật. Các chuyên gia không hoàn toàn hiểu nguyên nhân của thải ghép mãn tính. Không có biện pháp điều trị cho hiện tượng này. Phần lớn mọi người quay lại lọc máu hoặc thay thận.
Hoàn thành ghép thận
Phẫu thuật ghép thận được hoàn thành khi thận khỏe mạnh (thận hiến tặng) có thể thực hiện những chức năng mà thận bệnh lúc trước không làm được. Ghép thận được áp dụng khi người bệnh có bệnh thận nặng mãn tính (suy thận) mà không thể chữa bằng các phương pháp khác. Người bệnh sẽ không được ghép thận nếu đang có bệnh truyền nhiễm hoặc các bệnh đe dọa tính mạng như ung thư, bệnh tim, phổi nặng.
Nếu bệnh nhân bị suy thận mãn tính và lựa chọn ghép thận, người đó có thể sống lâu hơn người chỉ chạy thận nhân tạo.
Trong quá khứ, ghép thận sử dụng một thận từ người có quan hệ huyết thống gần như cha, mẹ, anh, hay chị thì sẽ thành công nhất. Nhưng với những thuốc chống thải ghép hiện đại, thận từ người không có quan hệ gia đình cũng có thể hoạt động tốt. Ghép tạng từ tạng người sống hoặc tạng người chết đều có thể thành công.
Nguy cơ
Nguy cơ của ghép thận bao gồm:
Đưa ra quyết định
Ghép thận có thể là phương pháp chữa trị tốt hơn chạy thận nhân tạo, vì tỉ lệ sống sẽ tăng lên sau ghép thận. Người bệnh cũng sẽ có thể sống một cuộc sống bình thường vì không cần phải chạy thận nhân tạo. Mặc dù ghép thận là một thủ thuật đắt đỏ, nhưng chi phí lại thấp hơn so với chạy thận nhân tạo dài hạn.
Thường mất một quãng thời gian dài chờ đợi để bệnh nhân nhận thận hiến tặng. Và không thể đảm bảo rằng ca ghép thận sẽ thành công. Một ít biến chứng xảy ra cả ở những người có thể trạng phù hợp phẫu thuật và những người không có bệnh lý nghiêm trọng khác (chẳng hạn bệnh động mạch vành hoặc ung thư) sẽ hạn chế tuổi thọ của người bệnh.
Sau khi được ghép thận, người bệnh sẽ dùng thuốc chế ngự hệ miễn dịch để dự phòng cơ thể đào thải thận mới. Người bệnh sẽ phải dùng thuốc cho đến hết cuộc sống. Vì những thuốc này sẽ làm yếu hệ miễn dịch, người bệnh có nhiều nguy cơ bị nhiễm khuẩn. Bên cạnh đó, khản năng cơ thể đào thải thận ngay cả khi dùng thuốc vẫn có thể xảy ra. Nếu xảy ra, người bệnh phải bắt đầu chạy thận nhân tạo và chờ đến khi thay thận nếu có thể.
Thuốc chế ngự miễn dịch cũng làm tăng nguy cơ một số bệnh khác, chẳng hạn ung thư da và ung thư hạch bạch huyết. Bạn sẽ có nguy cơ cao bị tiểu đường, cao huyết áp, bệnh tim, đục thủy tinh thể và viêm gan.
Thông tin thêm tham khảo tại bài viết: Suy thận: triệu chứng và phương pháp điều trị
Theo một nghiên cứu mới đây, trẻ mẫu giáo dễ nổi nóng, khó bảo có thể được xem là một dấu hiệu cảnh báo trước nguy cơ mắc chứng tăng động giảm chú ý (ADHD) ở giai đoạn sau.
Các nhà khoa học đã phát hiện nhiều mối liên hệ đáng chú ý giữa nhóm máu và nguy cơ mắc các bệnh lý khác nhau.
Không ít phụ huynh đang nhầm lẫn dị ứng đạm sữa bò và bất dung nạp lactose ở trẻ đều là cùng một bệnh lý. Tuy nhiên, sự thật không phải như vậy. Cả hai tình trạng đều khác nhau về nguyên nhân, biểu hiện. Để có thể phân biệt rõ hơn, mời cha mẹ cùng tham khảo thông tin trong bài viết dưới đây!
Giãn phế quản là tình trạng các phế quản bị giãn ra và khó hồi phục được, dễ gây những biến chứng nguy hiểm, đe dọa tính mạng người bệnh nếu không được điều trị và quản lý bệnh tốt.
Mùa đông thường mang đến cảm giác uể oải khiến nhiều người muốn cuộn tròn trong chăn ấm áp hơn là ra ngoài vận động. Tuy nhiên, duy trì thói quen tập thể dục trong mùa lạnh lại mang đến nhiều lợi ích sức khỏe đáng kể. Trong bài viết dưới đây, Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ phân tích những lợi ích và cung cấp những lưu ý quan trọng để bạn tập luyện an toàn và hiệu quả trong những ngày giá rét.
Các biến chứng cho thai nhi có thể xảy ra trong thai kỳ nếu bạn là Rh âm tính và thai nhi là Rh dương tính. Vậy yếu tố Rh là gì và các biến chứng mà thai nhi có thể gặp phải nếu bị bất tương thích Rh là gì? Cùng Viện Y học ứng dụng tìm hiểu qua bài viết sau đây.
Giấc ngủ của trẻ có thể bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nhiệt độ, trẻ có thể dễ trở mình, ngủ không sâu giấc khi thời tiết chuyển lạnh dần. Vậy làm thế nào để đảm bảo con bạn có một giấc ngủ ngon và sâu trong những ngày đông giá rét? Hãy cùng Viện Y học ứng dụng Việt Nam khám phá những mẹo hữu ích dưới đây.
Da nhạy cảm là làn da dễ phản ứng với các tác nhân kích thích như thời tiết, dị ứng hoặc một số mỹ phẩm hóa chất nhất định. Da của bạn có thể chuyển sang màu đỏ, khô, châm chích, ngứa, căng, có thể nổi cục, vảy hoặc nổi mề đay khi gặp phải các tác nhân kích thích. Các tình trạng như bệnh chàm, viêm da tiếp xúc, bệnh trứng cá đỏ, v.v. thường là nguyên nhân khiến da trở nên nhạy cảm hơn.