Trong lĩnh vực khoa học về con người, khi một bộ phận cơ thể bị hư hỏng không thể chữa khỏi, ghép tạng là biện pháp duy nhất, là hy vọng sống cuối cùng của người bệnh. Trong nhiều trường hợp nó là biện pháp cuối cùng để níu giữ sự sống.
Cho đến nay y học hiện đại đã tiến hành cấy ghép được rất nhiều bộ phận trên cơ thể con người, từ nội tạng như gan, thận, tim, tụy.... đến các bộ phận bên ngoài như mặt, chân, tay...Vấn đề hiện đang làm đau đầu các nhà quản lý là số bệnh nhân chờ được ghép tạng tăng lên theo từng năm nhưng số người tình nguyện hiến tạng quá ít, nhiều người bệnh đã qua đời do không thể chờ để được nhận bộ phận hiến tặng. Tuy nhiên trong lĩnh vực vô cùng mới mẻ này, có những điều không phải ai cũng biết.
Mọc ra tạng mới
Cơ chế thải ghép
Sau ghép tạng, tất cả người bệnh thường được sử dụng thuốc chống thải ghép suổt đời để duy trì sự sống cũng như hoạt động của bộ phận cấy ghép. Mặc dù người cho và người nhận tạng đều có chỉ số sinh học tương đồng nhất, nhưng mỗi một cơ thể có một hệ thống miễn dịch khác nhau. Có người bệnh sau cấy ghép hệ miễn dịch không tiếp nhận cơ quan mới dẫn tới hư hỏng tạng ghép, thậm chí dẫn tới tử vong.
Kể từ ca ghép tạng đầu tiên trên thế giới, các nhà khoa học đã tìm kiếm các cách thức để “đánh lừa” hệ miễn dịch, làm cho hệ thống này chấp nhận một nội tạng lạ. Như tiến sĩ David Sachs ở Boston, Mỹ đã từng tiến hành những cú lừa như vậy, ông đã cho tiêm tế bào gốc vào tủy xương vào người nhận tạng để tạo hệ miễn dịch mới cho người bệnh, ông hy vọng bằng cách này hệ miễn dịch sẽ dễ dàng chấp nhận "vật thể lạ" hơn. Tuy nhiên không phải trường hợp nào cũng thành công, có bệnh nhân của ông đã bị hỏng thận ghép và phải tiến hành ghép thận lần 2 để chữa bệnh.
Nguy cơ nhiễm bệnh cao
Một trong những căn bệnh mà người ghép tạng có nguy cơ mắc phải là bệnh tiểu đường. Sau ghép tạng, người bệnh thường phải dùng thuốc ức chế hệ thống miễn dịch suốt phần đời còn lại của mình, đây lại là một nguy cơ cho các bộ phận cơ thể khác. Khi hệ thống miễn dịch bình thường bị suy yếu, người bệnh dễ bị nhiễm bệnh hơn, nhất là các bệnh thông thường như cảm lạnh, cảm cúm... Đối với các thuốc có tác dụng ức chế hệ miễn dịch trong ngành ghép tạng có thể gây ra các phản ứng phụ, làm người bệnh mất ngủ, thần kinh kích động, rậm lông, phù nề, tăng huyết áp, hay gây ra bệnh tiểu đường.... Trong những trường hợp này việc ngưng sử dụng thuốc là không thể.
Nạn buôn bán nội tạng
Ngay khi ngành ghép tạng ra đời, đã xuất hiện những nhu cầu về nguồn tạng ghép. Theo ước tính việc buôn bán nội tạng, hầu hết là bất hợp pháp, có giá trị hàng tỷ USD mỗi năm. Nhà báo Scott Carney đã nghiên cứu và viết một cuốn sách về thị trường chợ đen, nơi buôn bán các bộ phận cơ thể con người. Trong nghiên cứu của mình, ông tiết lộ, sau trận sóng thần lịch sử năm 2004, xuất hiện một ngôi làng ở Ấn Độ có tên Kidneyvakkam hay còn gọi là làng hiến thận. Ở đây những nạn nhân của trận sóng thần vì sự tồn tại đã phải bán đi những quả thận của mình. Rất nhiều người dân ở đây đều có sẹo ở bụng, dấu vết của một cuộc phẫu thuật lấy thận. Nhà báo Carney đặt vấn đề, nguồn nội tạng có được từ các vụ bán thận của dân nghèo nhằm phục vụ người giàu là một thị trường ngầm, vô đạo đức nhất.
Vướng mắc về tôn giáo
Tôn giáo đã và đang là cản trở lớn đối với ngành khoa học ghép tạng, bởi mỗi tôn giáo khác nhau có niềm tin và tín ngưỡng khác nhau đối với những người đã qua đời. Đối với nhiều tôn giáo đó là sự xúc phạm vong linh của người chết, những người đồng ý hiến tạng người thân cảm thấy có tội với người chết và tổ tiên. Đạo Phật lại có quan niệm chết không toàn thây...
Ở Iran hầu hết các ca ghép tạng đều được lấy từ người cho còn sống bởi người Hồi giáo quan niệm không xúc phạm người đã chết. Trong khi người theo đạo Kito hay Công giáo dễ dàng chấp nhận việc lấy và ghép tạng thì người Do Thái lại có quan niệm hoàn toàn khác. Đối với họ, một con người vẫn được coi là sống khi trái tim còn đập, kể cả khi người đó chết não. Người Do Thái tin rằng cái chết thực sự chỉ xảy ra khi trái tim con người ngừng đập. Như vậy nếu trong trường hợp ghép tim, trái tim người hiến sẽ đập trong lồng ngực của người nhận tạng, hành động này là không thể chấp nhận được. Nó phạm vào vấn đề đạo đức.
Lĩnh vực luôn đòi hỏi sự nghiên cứu
Cấy ghép nội tạng là một lĩnh vực mới, luôn đòi hỏi những nghiên cứu chuyên sâu về y sinh học, con người. Ca ghép tạng đầu tiên được thực hiện năm 1954, đó là một trường hợp ghép thận. Sau cấy ghép không lâu bệnh nhân đã tử vong. Phải đến 30 năm sau đó, với việc ra đời của thuốc chống thải ghép, phương pháp điều trị bệnh này mới trở thành một cuộc cách mạng trong y học. Thành công của nó đã được trao giải Nobel y học. Để có được ngày hôm nay, đòi hỏi biết bao cuộc phẫu thuật, các công trình nghiên cứu khoa học, y học trên người. Đến nay mỗi năm thế giới ghi nhận có khoảng 40.000 ca ghép tạng.
Người ghép tạng sống có thọ?
Chưa một nghiên cứu nào thống kê về tuổi thọ của những bệnh nhân đã tiến hành ghép tạng. Nhưng có thể khẳng định rằng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, những bệnh nhân ghép tạng sống thêm 10-20 năm nữa không còn là chuyện quá hiếm, họ đang được hỗ trợ để sống ngày càng thọ hơn.
Ở bệnh nhân ghép gan, nếu thành công, việc sống sau 5 năm cấy ghép đang trở thành phổ biến trên thế giới. Đối với thận, các nhà khoa học cho rằng việc ghép thận từ người còn sống làm tăng tuổi thọ cho bệnh nhân. Bệnh nhân ghép tim dường như sống ít thọ nhất so với các tạng khác như thận, gan...
Với việc phát triển của ngành khoa học ghép tạng, các nhà khoa học cho rằng trong tương lai không xa tuổi thọ trung bình của bệnh nhân sau ghép tạng cũng sẽ không thua kém gì người bình thường.
Hy vọng nguồn tạng từ máy in 3D
Sự xuất hiện của máy in 3-D đang trở thành một cuộc cách mạng mới trong y học. Người ta có thể tạo ra bất cứ vật thể 3-D nào chỉ nhờ một chiếc máy in, kể cả các bộ phận trong cơ thể. Đã có nhiều cuộc cấy ghép thành công nhờ máy in 3-D như thay thế mô hình tai, sụn, bàng quang, tử cung... Hiện các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu với hy vọng sẽ cho ra đời một cơ quan nội tạng thực sự như thận sinh học từ máy in 3-D. Họ dự tính sẽ phải mất từ 15-20 năm nữa để cho ra đời một quả thận sinh học đầu tiên trên thế giới.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Những chú ý quan trọng về ghép thận
Do các loại thuốc Tây y điều trị bệnh Parkinson thường đi kèm với tác dụng phụ và nguy cơ “nhờn thuốc” khi dùng lâu dài, nhiều người tìm tới các phương pháp Đông y với hy vọng các loại thảo dược tự nhiên sẽ an toàn hơn với cơ thể.
Khi bước vào giai đoạn lão hóa, cơ thể con người trải qua nhiều thay đổi sinh lý, suy giảm chức năng của hệ cơ xương khớp và dễ mắc phải các bệnh lý về xương khớp, đặc biệt là trong mùa đông lạnh
Tức giận là một cảm xúc bình thường mà ai cũng sẽ trải qua, bởi hiếm ai có thể giữ được bình tĩnh khi bị tấn công, xúc phạm, phản bội hay thất bại... Tuy nhiên, tức giận quá thường xuyên hoặc kéo dài có thể gây ra nhiều vấn đề đối với sức khỏe.
Mùa đông đến đi kèm với sự thay đổi nhiệt độ đột ngột, không khí hanh khô và độ ẩm giảm. Những yếu tố này gây nên các bệnh về đường hô hấp, đặc biệt là ở trẻ nhỏ, người cao tuổi và những người có hệ miễn dịch yếu. Các bệnh lý đường hô hấp không chỉ gây khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống mà còn có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời.
Đau chân là vấn đề phổ biến ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của nhiều người. Cùng tìm hiểu 9 phương pháp đơn giản, hiệu quả để chữa đau chân tại nhà. Áp dụng đúng cách, bạn có thể giảm đau, cải thiện lưu thông máu và tăng cường sức khỏe cho đôi chân của mình.
Thật khó khăn khi bạn phải đối mặt với bệnh tiêu chảy, nhất là khi bạn đang phải cho con bú. Trong bài viết này, Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ chia sẻ một số biện pháp khắc phục tự nhiên để điều trị bệnh tiêu chảy cho các bà mẹ vẫn đang trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ.
Ăn rau đầu tiên trong bữa ăn có tác dụng thế nào với người bệnh đái tháo đường? Thứ tự các ăn các món trong bữa ăn của người bệnh đái tháo đường có gì đặc biệt? Nhân Ngày thế giới phòng chống đái tháo đường 14/11, cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Ngày Trẻ em Thế giới là dịp để chúng ta cùng nhau tôn vinh và bảo vệ thế hệ tương lai của đất nước. Trong bối cảnh cuộc sống hiện đại với nhiều thay đổi, việc chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ em càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.