Một cơ quan của Tổ chức Y tế Thế giới, Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) đã tuyên bố rằng chất làm ngọt nhân tạo aspartame là một chất có thể gây ung thư ở người. Điều này có thể có ý nghĩa lớn đối với các công ty sản xuất nước giải khát, công ty sử dụng aspartame trong một số sản phẩm của mình bao gồm đồ uống có ga không đường, nước ngọt không calo và các loại đồ uống dành cho người ăn kiêng.
Các công ty sản xuất nước ngọt cho biết nghiên cứu cho thấy aspartame "an toàn cho người tiêu dùng." Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ cũng vậy. Vậy chính xác thì aspartame là gì và cuộc tranh cãi này đã phát triển như thế nào? Dưới đây là những gì bạn cần biết.
Aspartame là gì?
Aspartame là chất làm ngọt hóa học ngọt hơn đường khoảng 200 lần. Nó được giới thiệu để thay thế đường như một chất làm ngọt.

Aspartame là một dipeptide được cấu tạo chủ yếu từ hai axit amin—phenylalanine và axit aspartic. Theo Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ, khi chúng được kết hợp để tạo thành aspartame, chúng sẽ tạo ra vị ngọt đậm.
Aspartame có ở đâu?
Aspartame có trong chất tạo ngọt Equal, NutraSweet và Sugar Twin. Nó được sử dụng làm chất làm ngọt cho nước giải khát, các loại đồ uống khác, thuốc, kẹo cao su không đường và kẹo. Aspartame không ổn định với nhiệt nên thường không được sử dụng trong các món nướng.
Đọc thêm bài viết: Ưu và nhược điểm của chất tạo ngọt nhân tạo
Aspartame được phát hiện khi nào?
Aspartame được phát hiện vào năm 1965 bởi James M. Schlatter, người đang nghiên cứu thuốc chống ung thư và "hoàn toàn tình cờ phát hiện ra vị ngọt sau khi liếm nó khỏi ngón tay, trái với các quy định về an toàn lao động", theo một nghiên cứu về aspartame đăng trên tạp chí Nutrients.
Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ lần đầu tiên ban hành quy định về aspartame vào năm 1974 để sử dụng làm chất tạo ngọt trong kẹo cao su, ngũ cốc ăn sáng lạnh. Ngoài ra, aspartame còn được sử dụng để làm chất nền khô cho một số loại thực phẩm bao gồm đồ uống, cà phê hòa tan, trà, gelatin, bánh pudding, các sản phẩm từ sữa và lớp phủ bên trên. Năm 1996, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã phê duyệt aspartame cho các mục đích sử dụng khác, bao gồm cả chất làm ngọt đa năng.
Đọc thêm bài viết: Mật ong và đường kính – Nên chọn chất tạo ngọt nào?
Tranh cãi về sự an toàn của aspartame bắt đầu từ khi nào?
Một loạt các bài báo điều tra do UPI xuất bản năm 1987 đã báo cáo những lo ngại về ảnh hưởng sức khỏe có thể có của aspartame. Các nhà nghiên cứu vào năm 1996 đã công bố một nghiên cứu xem xét tỷ lệ khối u não và các yếu tố môi trường bao gồm aspartame và kết luận rằng "cần phải đánh giá lại khả năng gây ung thư của aspartame. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu khác trong nhiều năm đã xem xét ảnh hưởng sức khỏe của aspartame.
Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ kết luận rằng aspartame "an toàn cho người dân nói chung khi được sản xuất theo quy trình sản xuất tốt và được sử dụng trong các điều kiện sử dụng đã được phê duyệt".
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ cho biết lượng aspartame hàng ngày được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ chấp nhận là 500 mg cho mỗi kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày. Cơ quan An toàn Thực phẩm Châu Âu đã khuyến nghị ngưỡng thấp hơn là 40 mg cho mỗi kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày, điều này tương đương một người trưởng thành nặng 60 kilogram uống 12 lon nước ngọt dành cho người ăn kiêng với mức aspartame tối đa cho phép hàng ngày. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, lượng aspartame trong nước ngọt "có thể ít hơn từ 3 - 6 lần so với mức tối đa cho phép".
Hiệp hội Đồ uống Hoa Kỳ cho biết: "Trong hơn bốn thập kỷ, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã xác nhận với 6 đánh giá riêng biệt rằng aspartame an toàn cho con người, gần đây nhất là vào năm 2021".
Phòng khám Chuyên khoa Dinh dưỡng VIAM cung cấp các dịch vụ tư vấn, thăm khám dinh dưỡng cho trẻ em và người lớn với cam kết hỗ trợ nâng cao sức khỏe, tăng cường sức đề kháng và cải thiện các tình trạng như còi xương, suy dinh dưỡng, thừa cân,… Để đặt lịch khám, Quý khách vui lòng liên hệ Hotline: 0935 18 3939 hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY.
Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!
Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.
Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.
Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?
Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.
Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.
Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.