Rối loạn ăn uống lành mạnh (Orthorexia Nervosa)
Chúng ta đều quan tâm tới việc ăn uống lành mạnh, nhưng có sự khác biệt lớn giữa việc lưu tâm tới chế độ ăn và để cho chế độ ăn kiểm soát tâm trạng. Trong khi chứng chán ăn hoặc cuồng ăn đều nói về số lượng thực phẩm bạn ăn thì rối loạn ăn uống lành mạnh lại tập trung vào chất lượng của thực phẩm. Một báo cáo trên tờ Journal of Human Sport & Exercise mô tả những người bị chứng rối loạn ăn uống lành mạnh là những người bị ám ảnh phải tránh những thực phẩm chứa màu, mùi nhân tạo, chất bảo quản, hóa chất bảo vệ thực vật hoặc các thành phần biến đổi gen, chất béo không lành mạnh, thực phẩm chứa quá nhiều muối hoặc quá nhiều đường và các thành phần khác. Cuối cùng, những người này bắt đầu thực hiện theo cách của họ, đưa ra những quy tắc cứng nhắc và thường cô lập mình với xã hội.
Chán ăn do tập luyện (anorexia athletica AA)
Tình trạng này gặp chủ yếu ở các vận động viên, những người tập luyện thể thao. Trong khi những người mắc chứng biếng ăn hạn chế việc ăn uống và những người mắc chứng cuồng ăn phải gây nôn sau khi ăn, thì những người mắc chứng AA lại lao vào tập luyện để giữ cân, quan tâm đặc biệt tới số calo được đốt cháy. Trong số tất cả các rối loạn ăn uống, thì ám ảnh tập luyện có liên quan tới mối quan tâm lớn hơn về cân nặng và vóc dáng được thúc đẩy bởi sự bất mãn với cơ thể. Ám ảnh tập luyện cũng có thể bị thúc đẩy bởi các triệu chứng tiêu cực của việc không thể tập luyện. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, thậm chí chỉ sau 24 giờ không tập luyện, những người bị AA còn có cảm giác tội lỗi, lo âu, trầm cảm và bứt rứt.
Cuồng ăn tiểu đường (Diabulimia)
Theo nghiên cứu trên tờ Journal of Diabetes Science and Technology, những phụ nữ bị tiểu đường týp 1 dễ bị rối loạn ăn uống hơn gấp 2,4 lần những người không bị tiểu đường. Nhưng thay vì ăn uống hạn chế hoặc gây nôn, những người bị rối loạn này lại hạn chế dùng insulin: giảm liều insulin cần thiết hoặc không dùng. Bằng cách này, đường và calo sẽ đổ trực tiếp vào nước tiểu và cuối cùng đưa ra ngoài, dẫn đến sụt cân nhanh chóng.

Tình trạng này khiến người bệnh có nguy cơ cao hơn bị nhiễm trùng và nhiễm toan xêtôn tiểu đường, có thể dẫn tới hôn mê tiểu đường. Sự song hành giữa kiểm soát tiểu đường và rối loạn ăn uống (như theo dõi phần ăn, đường huyết, cân nặng và tập luyện) cũng khiến diabulima trở nên khó điều trị.
Chứng ăn bậy (pica)
Pica - ăn những thứ không phải thực phẩm như bụi bẩn, sơn hoặc giấy - thực sự là một rối loạn ăn uống khá phổ biến. Nó được phát hiện nhiều ở trẻ em, khoảng 10 tới 32% trẻ từ 1 tới 6 tuổi báo cáo bị chứng này. Nhưng tình trạng này cũng phổ biến ở phụ nữ mang thai và những người bị thiếu sắt vì trong một số trường hợp rối loạn, thèm ăn bắt nguồn từ thiếu dinh dưỡng (như sắt). Bên cạnh suy dinh dưỡng điển hình là nguyên nhân của nhiều rối loạn ăn uống, những người mắc chứng ăn bậy cũng có nguy cơ bị ngộ độc chì và tắc ruột do ăn uống những thực phẩm khó tiêu hóa.
Hội chứng ăn đêm
Hội chứng ăn đêm đặc trưng bởi việc ăn đêm quá nhiều mặc dù không cần thiết. Theo một nghiên cứu đăng trên Journal of the American Medical Association, những người bị hội chứng ăn đêm chỉ ăn khoảng 1/3 tổng lượng calo hàng ngày tính đến 6 giờ chiều, so với nhóm chứng ăn khoảng 3/4 lượng calo. Tình hình đảo ngược từ 8 giờ chiều đến 6 giờ sáng, khi những người bị hội chứng ăn đêm nạp vào người 56% lượng calo, trong khi nhóm chứng chỉ nạp vào 15%. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hội chứng ăn đêm có liên quan mật thiết tới trầm cảm. Những người này thường ăn các loại thực phẩm giàu carbonhydrat như một cách tự chữa bệnh.
Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.
Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.
Vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe xương, hỗ trợ chức năng miễn dịch và điều hòa nhiều quá trình sinh lý trong cơ thể. Thiếu hụt vitamin D kéo dài có thể dẫn đến loãng xương, yếu cơ, tăng nguy cơ gãy xương và làm giảm khả năng chống nhiễm trùng.
Cúm mùa là một bệnh đường hô hấp do virus cúm gây ra, lây lan mạnh vào mùa thu và mùa đông. Mỗi năm có khoảng 1 tỷ người mắc cúm, trong đó có từ 3 đến 5 triệu trường hợp diễn biến nặng. Tiêm phòng cúm là cách hiệu quả để giảm nguy cơ mắc bệnh và hạn chế các biến chứng nghiêm trọng, đặc biệt với những người có nguy cơ cao. Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ phân tích lợi ích của việc tiêm vắc xin cúm, đối tượng cần ưu tiên tiêm và thời điểm thích hợp để thực hiện tiêm chủng.
Trứng là nguồn protein hoàn hảo nhưng để tối ưu hóa năng lượng và khả năng hấp thụ dưỡng chất cần ăn đúng cách. Tham khảo 5 thực phẩm nên ăn cùng trứng giúp trứng phát huy tối đa sức mạnh dinh dưỡng.
Khi trời mưa hoặc trở lạnh, bạn có thể cảm thấy tâm trạng mình đi xuống, thiếu năng lượng và lười biếng hơn. Điều này không phải ngẫu nhiên, mà là dấu hiệu cho thấy thời tiết có ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần. Bài viết này sẽ đi sâu vào mối liên hệ giữa thời tiết và cảm xúc, giải thích tại sao những thay đổi theo mùa có thể gây ra trầm cảm theo mùa, đồng thời giới thiệu các biện pháp tự nhiên để giúp bạn duy trì tinh thần lạc quan ngay cả trong những ngày u ám.
Bệnh loãng xương thường tiến triển âm thầm và rất khó phát hiện. Đến khi phát tác, bệnh thường khó điều trị và phục hồi, để lại nhiều hậu quả nguy hiểm. Kiểm tra mật độ xương định kì được các bác sỹ khuyến cáo nhằm chẩn đoán sức khỏe xương và phát hiện sớm các nguy cơ bị loãng xương. Vậy, thực sự kết quả của đo mật độ xương có ý nghĩa gì?