Mục tiêu điều trị
Năm 2016, Hiệp hội Vẩy nến Hoa Kỳ lần đầu tiên đưa ra mục tiêu điều trị bệnh vẩy nến: Ba tháng sau khi bắt đầu điều trị loại thuốc mới theo phác đồ, diện tích da bị vẩy nến phải giảm còn dưới 1% toàn bộ bề mặt da của cơ thể, nghĩa là chỉ tương đương với diện tích của 1 lòng bàn tay.
Để có thể đạt được mục tiêu điều trị này, các bác sỹ cần phải thay đổi phương pháp điều trị theo một hướng khác với một tên gọi và mục tiêu khác. Quá trình này được gọi là “điều trị đích”.
Điều trị nhắm đến protein đích
Các thuốc ustekinnumab (Stelara) được đưa vào điều trị vẩy nến từ năm 2009 nhằm mục đích ngăn chặn hai loại protein liên quan đến quá trình viêm trong bệnh vẩy nến là interleukin -12(IL-12) và interleukin- 23 (IL-23). Nhưng những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra IL-12 thực ra lại có thể bảo vệ các tế bào khỏi một loại protein gây viêm là IL-17. Một số nhà khoa học cho rằng, IL-17 và IL- 23 mới chính là các protein gây viêm trong bệnh vẩy nến. Vì vậy, ngăn chặn 2 loại protein đích là IL-17 và IL- 23 sẽ mang lại hiệu quả cao hơn trong điều trị vẩy nến.
Thuốc chẹn IL-17
Một loại thuốc tiêm mới chặn các hoạt động của protein IL-17 được tiến hành thử nghiệm vào năm 2016. Ixekizumab (Taltz) mang lại kết quả tương đối tốt trên những bệnh nhân bị vẩy nến nặng, kết quả đã được chứng minh ở 80% bệnh nhân có những cải thiện về triệu chứng lâm sàng sau khi sử dụng thuốc. Thuốc cũng làm giảm gần một nửa các triệu chứng ở các bệnh nhân vẩy nến. Đây là một kết quả cực kỳ khả quan so với nhiều loại thuốc được đưa ra để điều trị vẩy nến nhưng không cải thiện được các triệu chứng.
Thuốc secukinumab (cosentyx) có chứa thụ thể ức chế IL-17 đã được phê chuẩn để điều trị vẩy nến từ năm 2015 tại Mỹ.
Nhiều loại thuốc điều trị vảy nến cũ như adalimumab (Humira) ngăn chặn TNF-alpha là một loại protein gây viêm nhưng những thế hệ thuốc mới bây giờ lại hướng vào IL-23. Thuốc chẹn IL-23 vẫn còn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Hiện đã có 3 loại thuốc chẹn IL-23 đang được thử nghiệm lâm sàng đó là guselkumab, risankizumab và tildrakizumab đều cho kết quả khả quan hơn adalimumab.
Gel có chứa ADN
Một loại gel có tên là AST-500 đã được chứng minh độ an toàn khi sử dụng trên người mắc bệnh vẩy nến đang được thử nghiệm lâm sàng ở pha 1. Loại thuốc nhiều tiềm năng này được sản xuất dựa trên công nghệ gọi là axít nucleic hình cầu. Nghĩa là người ta ứng dụng vật chất di truyền để khiến cho cơ thể bạn sản sinh ra TNF-alpha. Tuy nhiên vẫn cần những nghiên cứu đầy đủ hơn và toàn diện hơn để có thể đưa loại thuốc này vào phác đồ điều trị vảy nến.
Một số người mắc bệnh vảy nến thường xuyên bị khó ngủ. Nhưng liệu ngủ kém lâu dài có khiến những cơn đau khớp, ngứa ngáy, và các vấn đề khác về da trầm trọng hơn không? Các chuyên gia cho rằng điều đó hoàn toàn có thể xảy ra. Nghĩa là người mắc bệnh vảy nến luôn ở trong một vòng xoắn bệnh lý.
Có thể do quá lo lắng về bệnh của mình hoặc do những khó chịu của bệnh ảnh hưởng đến tâm lý của người bệnh khiến họ mất ngủ và càng mất ngủ thì sức đề kháng và khả năng phục hồi của cơ thể càng giảm dẫn đến bệnh lại càng trầm trọng thêm. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn chưa biết một cách rõ ràng là giấc ngủ và những triệu chứng của bệnh tật ảnh hưởng đến nhau như thế nào.
Phẫu thuật giảm cân trong trường hợp béo phì có thể giảm bớt đi các triệu chứng của bệnh vẩy nến cũng như viêm khớp vẩy nến. Người ta nhận thấy những bệnh nhân vẩy nến cải thiện được tình trạng bệnh khi cân nặng giảm đáng kể sau phẫu thuật giảm cân.
Giảm một lượng cân lớn có thể giảm bớt được những nguy hiểm của quá trình viêm toàn cơ thể là một giả thuyết được các nhà khoa học đặt ra nhằm giải thích cho việc trên. Viêm là vấn đề chính của một đợt vảy nến bùng phát.
Giống như giấc ngủ và bệnh vảy nến có tác động qua lại lẫn nhau, trầm cảm cũng tương tự vậy. Những lo lắng về bệnh tật, những cơn đau khớp hành hạ và không có phương thuốc điều trị dứt điểm khiến bệnh nhân rơi vào bế tắc và trầm cảm. Người ta cũng ghi nhận được những bệnh trầm cảm xuất hiện ở bệnh nhân vảy nến cao gấp hai lần so với những người bình thường và càng bị stress thì bệnh tình lại càng nặng thêm. Sử dụng các thuốc sinh học điều trị vảy nến có thể vừa cải thiện triệu chứng bệnh vừa cải thiện được tâm trạng.
Kết hợp điều trị thuốc và liệu pháp ánh sáng
Nếu sau một thời gian điều trị bằng thuốc, bệnh tình của bạn không thấy có tiến triển gì thì bác sỹ có thể sử dụng phối hợp cả thuốc và vật lý trị liệu, cụ thể là liệu pháp ánh sáng. Nghĩa là da bạn sẽ được tiếp xúc với đèn chiếu tia cực tím. Bộ đôi điều trị này có thể hiệu quả hơn là điều trị riêng lẻ từng cách một nhưng về lâu dài thì chưa chắc đã an toàn và hiệu quả được như phương pháp điền trị đơn lẻ. Do vậy các bác sỹ thường chỉ áp dụng phương pháp điều trị này trong một thời gian ngắn.
Bệnh tim mạch
Bệnh vảy nến có mối liên quan chặt chẽ với bệnh tim mạch, đặc biệt trong một số trường hợp bệnh còn gây ra tình trạng viêm rất nhiều mạch máu trong đó phải kể đến động mạch chủ bụng hoặc những mạch máu lớn chạy trong cơ thể bạn. Rất nhiều nghiên cứu đã tìm ra mối liên quan giữa bệnh vảy nến và tình trạng nội viêm.
Loãng xương
Những người mắc bệnh vảy nến nhất là nam giới có nguy cơ loãng xương lớn hơn gấp nhiều lần. Các nhà khoa học vẫn chưa giải thích được nguyên nhân tại sao. Có thể là do nồng độ IL-17 cao khiến các tế bào xương mới sinh ra không thực hiện đúng chức năng? Nhưng hiện nay, loại thuốc có thể ức chế được IL-17 (ixekizumab) có thể giúp cải thiện các triệu chứng trên da của bệnh nhân và giữ cho xương chắc khỏe.
Liệu pháp gen
Một nghiên cứu gần đây tìm ra gen GRHL3, một gen giúp da phát triển khi mới sinh ra cũng đồng thời có tác dụng trên bệnh vảy nến ở mọi cấp độ. Hiện nay nghiên cứu đang tập trung vào việc liệu gen này ở những người bị vảy nến có bị biến đổi gì hay không và tìm ra cách để sửa chữa tình trạng này.
Các nhà khoa học đã tìm ra một loại protein gọi là Rac1 được sản sinh ra khi da bạn bị phá hủy (tương tự như khi bạn bị vết thương rách da) và cả khi bạn bị viêm như viêm họng chẳng hạn. Cả hai tình trạng này đều xuất hiện ở bệnh vảy nến, do vậy nếu chúng ta tìm cách “tắt” được sự hoạt động của Rac1 thì có thể giúp giảm bớt được những cơn bùng phát bệnh. Điều này khiến việc điều trị trở nên dễ dàng hơn các thuốc điều trị sinh học hiện nay.
Thông tin tìm hiểu thêm về điều trị vẩy nến tại bài viết:" một số phương pháp đẩy lùi bệnh vảy nến"
Thoát vị hoành, hay thoát vị khe hoành, xảy ra khi phần trên của dạ dày bị đẩy lên ngực thông qua một lỗ mở ở cơ hoành (cơ ngăn cách bụng với ngực). Tình trạng này xảy ra ở nơi dạ dày và thực quản của bạn nối lại với nhau, còn được gọi là ngã ba thực quản dạ dày. Đôi khi, thoát vị khe hoành không gây ra vấn đề gì và không cần điều trị.
Đau chân khi đứng lâu là tình trạng mà nhiều người gặp phải. Tuy nhiên, bạn hoàn toàn có thể khắc phục vấn đề này bằng một vài thay đổi nhỏ trong thói quen sinh hoạt hàng ngày
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh vẩy nến khác nhau tùy thuộc vào từng người và loại bệnh vẩy nến. Mặc dù bệnh vẩy nến là tình trạng mãn tính kéo dài suốt đời, một số người có thể thấy các triệu chứng biến mất trong nhiều tháng hoặc nhiều năm.
Bạn có bỏ qua mũi tiêm phòng cúm hàng năm vì bạn ghét bị tiêm không? Điều đó có thể hiểu được. Nhưng đừng để điều đó ngăn cản bạn tiêm vắc-xin. Có một lựa chọn khác: dành cho bạn: vắc-xin xịt mũi.
Chắc hẳn ai cũng đã từng nghe qua câu chuyện dùng tiếng ồn trắng giúp các bé sơ sinh ngủ ngon và sâu giấc. Vậy đã bao giờ bạn thắc mắc, có những loại tiếng ồn nào và đâu là tiếng ồn dành cho người lớn? Mọi câu hỏi sẽ được giải đáp ngay sau đây.
Ngày càng nhiều người trẻ bị đau thần kinh tọa với biểu hiện đau phần lưng dưới lan xuống chân. Để kiểm soát cơn đau thần kinh tọa, người bệnh cần điều chỉnh từ thói quen sinh hoạt hàng ngày.
Do các loại thuốc Tây y điều trị bệnh Parkinson thường đi kèm với tác dụng phụ và nguy cơ “nhờn thuốc” khi dùng lâu dài, nhiều người tìm tới các phương pháp Đông y với hy vọng các loại thảo dược tự nhiên sẽ an toàn hơn với cơ thể.
Khi bước vào giai đoạn lão hóa, cơ thể con người trải qua nhiều thay đổi sinh lý, suy giảm chức năng của hệ cơ xương khớp và dễ mắc phải các bệnh lý về xương khớp, đặc biệt là trong mùa đông lạnh