Phát hiện mới về mối liên hệ giữa Lactate và bệnh ung thư
Từ năm 1923, nhà khoa học người Đức đoạt giải Nobel Otto Warburg đã nhận ra các tế bào ung thư có khả năng hấp thụ đường hoặc đường glucose cao gấp nhiều lần so với các tế bào bình thường.
Các tế bào này dường như không có khả năng chuyển hóa lượng đường hấp thụ thành năng lượng, thay vào đó chúng sẽ chuyển hóa 70% lượng đường thành lactate khiến loại chất này trở thành một chất phụ nguy hiểm tồn tại trong cơ thể. Trong nhiều thập kỷ sau đó, các nhà khoa học chỉ tập trung nghiên cứu yếu tố gene trong ung thư, bỏ qua các tìm hiểu về cơ chế chuyển hóa của tế bào ung thư. Vì thế, vai trò của lactate trong quá trình phát triển bệnh ung thư tạm thời không được tính đến.
Trong nghiên cứu mới này, các nhà nghiên cứu đã phần nào làm sáng tỏ vai trò của lactate trong quá trình hình thành các mạch máu mới trong khối u, cách thức chất này can thiệp vào hệ miễn dịch của cơ thể phản ứng với các tế bào ung thư cũng như cách thức lactate hình thành môi trường vi mô có tính acid hay một khu vực bên ngoài tế bào ung thư, có thể đẩy nhanh tốc độ di căn của khối u ác tính.
Nghiên cứu cũng so sánh những biến đổi bên trong cơ bắp của một vận động viên luyện tập cường độ cao với tiến trình phát triển của bệnh ung thư.
Theo ông Inigo San Milan, Giám đốc Phòng Thí nghiệm sinh lý học thuộc Trung tâm Y học thể thao, Đại học Colorado, đồng thời là một cựu vận động viên đua xe đạp tại giải Tour de France, khi con người tập thể dục với cường độ cao, các cơ bắp có nhiều hoạt động trao đổi chất tương tự như các tế bào ung thư. Cơ bắp có thể hấp thụ và biến một lượng lớn glucose thành năng lượng trong ty thể khiến nồng độ lactate tăng lên, cao hơn mức cơ thể có thể giải phóng. Ty thể là bào quan bao bởi hai lớp màng hiện diện trong tất cả các sinh vật nhân thực. Ty thể sản xuất phần lớn phân tử cao năng adenosine triphosphate, một nguồn năng lượng hóa học cung cấp cho hầu hết các hoạt động của tế bào.
Với người khỏe mạnh, cơ thể sẽ tái sử dụng số lactate này và biến nó thành nguồn năng lượng hữu ích cho não bộ, hệ cơ và các cơ quan khác. Tuy nhiên, đối với những người mắc bệnh ung thư, chức năng này có thể không hoạt động và hệ tuần hoàn của cơ thể bị phá vỡ.
Theo các nhà khoa học, những người thường xuyên vận động thường ít có nguy cơ mắc các bệnh ung thư do cơ thể của họ có khả năng giải phóng chất lactate. Trong khi đó, ở những người ít vận động, thích ăn đồ ngọt, cơ thể có thể tích tụ chất lactate, hạn chế quá trình trao đổi chất, dẫn tới nguy cơ cao mắc bệnh ung thư.
Cuộc tranh luận về protein động vật và protein thực vật đã kéo dài từ lâu. Sự khác biệt cốt lõi giữa hai nguồn đạm này là gì và nó ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu sức khỏe?
Việc suy giảm hormone không phải là vấn đề riêng của ai cả, đặc biệt là trong mùa đông. Mùa đông gây ảnh hưởng tới rối loạn hormone và nội tiết tố cả ở nam giới và nữ giới.
Loãng xương là tình trạng giảm mật độ và chất lượng xương, làm tăng nguy cơ gãy và làm thay đổi cấu trúc xương theo thời gian. Hậu quả của loãng xương không chỉ dừng lại ở gãy xương mà còn tạo ra một chuỗi hệ lụy trên nhiều phương diện về mặt lâm sàng, hành vi, thói quen hằng ngày, tâm lý, xã hội và kinh tế.
Uống một thìa dầu ô liu giúp bôi trơn đường ruột và hoạt động như một chất nhuận tràng tự nhiên nhẹ. Dầu ô liu kích thích nhu động ruột, làm mềm phân, từ đó giúp giảm táo bón và hỗ trợ tiêu hóa diễn ra trơn tru hơn.
Tăng cholesterol có thể làm tăng huyết áp vì nó góp phần hình thành mảng bám trong động mạch (xơ vữa động mạch). Huyết áp cao có thể xảy ra do tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu.
Cúm A là một bệnh nhiễm virus cấp tính gây ra các triệu chứng khó chịu như sốt cao, đau họng, nhức mỏi toàn thân và mệt mỏi. Chế độ ăn uống khoa học và hợp lý là yếu tố nền tảng giúp tăng cường sức đề kháng, giảm nhẹ triệu chứng, rút ngắn thời gian hồi phục.
Mức collagen bạn nên bổ sung phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ ăn uống, tuổi tác, sức khỏe tổng thể và loại thực phẩm bổ sung. Liều dùng hàng ngày từ 2,5 đến 15 gram có thể an toàn và hiệu quả nếu bạn cần bổ sung collagen cho cơ thể.
Hội chứng ống cổ tay ảnh hưởng tới khoảng 50-60% phụ nữ mang thai và thường gặp ở ba tháng cuối của thai kỳ. Hội chứng này có thể gây ra một số triệu chứng khó chịu cho thai phụ và có thể tự hết sau sinh vài tuần. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp khó chịu mà bạn cần tới gặp bác sĩ ngay. Cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây!