Đường Sucralose và đường Aspartame là 2 loại đường thay thế dùng trong thực phẩm hay đồ uống ngọt mà bản thân chúng không chứa calo hay carbohydrate. Bạn có thể tìm thấy đường sucralose phổ biến trên thị trường dưới tên nhãn là Splenda, và đường aspartame dưới tên NutraSweet hay Equal. Về bản chất, chúng đều là chất có độ ngọt cao, tuy nhiên chúng khác nhau về phương pháp và cách thức làm ngọt.
Điều thú vị của loại đường này là chúng không chứa năng lượng. Đường sucralose được thương mại hóa lần đầu vào năm 1998.
Để tạo ra loại đường này, đường glucose được trải qua một quá trình hóa học với nhiều giai đoạn khác nhau nhằm thay đổi 3 cặp oxy-hidro trong phân tử bằng các nguyên tử clo. Sự thay thế này tạo ra một sản phẩm tương tự như đường ban đầu nhưng lại không chuyển hóa được bởi cơ thể.
Cơ chế này cũng giúp sucralose có độ ngọt đáng kinh ngạc: ngọt hơn 600 lần so với glucose! Chính vì điều này mà đường sucralose thường được phối hợp với các chất độn như maltodextrin hay dextrose, giúp làm giảm độ ngọt của chúng về mức vừa phải.
Đường sucralose cũng chứa ít calo. Nếu tính trên 1 gam sản phẩm thương mại Splenda, chúng chỉ cung cấp 3 calo và 1 gam carbohydrate. Khi so sánh với dạng maltodextrin hay dextrose được tổng hợp từ ngô hay các loại cây giàu tinh bột (3,36 calo/1 gam), đường sucralose vẫn cho ít calo hơn.
Tóm lại, việc sử dụng các sản phẩm có đường sucralose (ví dụ như Splenda) giúp giảm tiêu thụ calo cho cơ thể, tránh việc tiêu thụ quá mức khuyến nghị hằng ngày.
Đường Aspartame được cấu thành từ 2 nhóm amino acid: acid aspartic và phenylalanine. Mặc dù các thành phần của chúng là đều là từ tự nhiên, song aspartame lại không được gọi là đường tự nhiên.
Đường aspartame được phát hiện năm 1965, nhưng cho đến tận năm 1981 nó mới được chấp thuận để sử dụng rộng rãi. Về bản chất, chúng được coi là chất làm ngọt có giá trị dinh dưỡng cao khi cung cấp 4 calo trên 1 gam, ngang mức đường glucose.
Khi so sánh với đường glucose, đường aspartame có độ ngọt cao hơn gấp 200 lần. Một điểm giống nhau nữa với đường sucralose là đường aspartame cũng thường được sử dụng phối hợp kèm chất độn, giúp chúng giảm độ ngọt so với nguyên bản.
Phần lớn các sản phẩm thương mại của đường aspartame đều chứa một lượng calo tương đương mức calo của maltodextrin hay dextrose. Theo khuyến nghị sử dụng được đưa ra bởi FDA – Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ, mức tiêu thụ khuyến nghị là 50mg/kg cân nặng trong 1 ngày. Khi sử dụng trong các đồ uống có ga chứa đường aspartame, trong 355ml đồ uống (tương đương 1 lon) sẽ có chứa khoảng 180mg. Nếu so với mức khuyến nghị, một người 75kg phải uống tới 21 lon đồ uống này trong một ngày mới đạt mức khuyến nghị. Do vậy, đường aspartame giúp hạn chế lượng đường và lượng calo tiêu thụ hằng ngày khi sử dụng.
Tác động xấu lên sức khỏe ?
Việc sử dụng đường sucralose và đường aspartame hiện nay vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi, song phần lớn chưa tìm được những ảnh hưởng quá tiêu cực của 2 loại đường này cho sức khỏe.
Theo Ủy ban an toàn thực phẩm Châu Âu (EFSA), họ từng ghi nhận hơn 600 nghiên cứu về việc sử dụng đường aspartame trên thực tế kể từ năm 2013 đến nay và vẫn chưa ghi nhận trường hợp hay lý do nào để nói rằng tiêu thụ loại đường này là không an toàn. Đối với đường sucralose, hiện nay cũng đã có hơn 100 nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của loại đường này và cũng chưa ghi nhận những ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe.
Gần đây đã có nhiều lo ngại được đặt ra khi việc sử dụng aspartame có thể liên quan đến ung thư não. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại vẫn chưa chứng minh được điều này, khi mà sử dụng loại đường này ở mức giới hạn an toàn.
Một tác dụng phụ thường thấy khi sử dụng 2 loại đường này là đau đầu và tiêu chảy. Nếu bạn sử dụng chúng mà gặp phải những trường hợp này, tốt hơn hết là bạn nên ngừng sử dụng vì hoàn toàn có thể là do bạn không hợp với chúng. Bên cạnh đó, cũng đã có những lo ngại dấy lên rằng việc sử dụng đường nhân thay thế trong thời gian lâu dài có ảnh hưởng xấu tới hệ vi sinh đường ruột, song chỉ dừng lại ở nghiên cứu trên động vật mà chưa có bằng chứng trên người.
Tác động lên đường huyết và chuyển hóa
Việc tác động lên đường huyết cũng như chuyển hóa của cơ thể là một yếu tố được quan tâm hàng đầu, song đa phần các nghiên cứu hiện tại đều chú trọng vào khả năng gây tình trạng béo phì hơn là gây tăng đường huyết. Lý do có thể là do bản chất 2 loại đường này cơ thể không thể chuyển hóa được.
Một số nghiên cứu có chỉ ra việc sử dụng đường aspartame kéo dài có thể làm tăng khả năng viêm, và có thể dẫn đến các bệnh như ung thư, tiểu đường hay các bệnh về tim mạch. Bên cạnh đó, cũng có những nghiên cứu cho rằng đường sucralose có thể ảnh hưởng xấu đến chuyển hóa của cơ thể. Cần nhiều nghiên cứu để hiểu rõ hơn về quá trình tác động lâu dài của những sản phẩm đường thay thế này lên sức khỏe, không chỉ là tác động lên đường huyết hay gây tình trạng béo phì.
Loại nào tốt hơn?
Cả 2 loại đường đều được phát triển theo một nguyên tắc: cung cấp vị ngọt mà không chứa nhiều calo. Do vậy, chúng đều an toàn cho bạn khi bạn sử dụng ở mức giới hạn an toàn.
Đối với những người mắc chứng phenyl keto-niệu, việc sử dụng sucralose là sự lựa chọn tốt hơn cả, vì cơ bản đường aspartame có chứa thành phần là amino acid. Hơn nữa, đối với những người có bệnh thận không nên sử dụng đường aspartame hoặc nếu có, nên sử dụng ở mức tối thiểu vì chúng có thể ảnh hưởng xấu tới sức khỏe. Một chứng bệnh khác như tâm thần phân liệt cũng nên tránh sử dụng 2 loại đường này, do thành phần phenylalanine có trong đường có thể dẫn đến rối loại kiểm soát vận động của cơ bắp.
Nhìn chung, 2 loại đường này an toàn trong quá trình sử dụng nếu bạn có sức khỏe bình thường. Những tác động tiêu cực vẫn cần phải được nghiên cứu thêm.
Tổng kết
Đường sucralose và đường aspartame là 2 loại đường thay thế phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong đời sống. Chúng thường được phối hợp với các chất như maltodextrin hay dextrose để làm giảm độ ngọt trong quá trình sử dụng. Việc sử dụng 2 loại đường này đem lại những hiệu quả cho cơ thể khi chúng giúp giảm lượng đường tiêu thụ hằng ngày và theo đó giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh mạn tính như tiểu đường, béo phì nhưng vẫn có thể thỏa mãn nhu cầu ăn đồ ngọt của bản thân.
Sử dụng đường thay thế vẫn cần thêm nhiều nghiên cứu để có thể hiểu rõ về những tác động lâu dài lên sức khỏe. Lời khuyên cho bạn là cho dù là bất cứ loại đường nào đi chăng nữa, giảm lượng đường glucose tiêu thụ hằng ngày vẫn là phương pháp hiệu quả để có một sức khỏe tốt.
Tham khảo thêm thông tin tại: Người bệnh đái tháo đường có ăn được ngô không?
Đau thắt lưng là một trải nghiệm phổ biến đối với nhiều người. Nó thường có thể dẫn đến đau, ngứa ran hoặc tê ở phần thân dưới. Có nhiều nguyên nhân gây đau thắt lưng, phổ biến nhất bao gồm căng cơ, tư thế xấu và tuổi tác.
Mùa hè đến mang theo cái nắng gay gắt, đặc biệt tại Việt Nam – nơi khí hậu nhiệt đới khiến bức xạ tia cực tím (UV) đạt mức cao trong nhiều tháng. Đối với thanh thiếu niên lứa tuổi năng động, thường xuyên tham gia các hoạt động ngoài trời như thể thao, dã ngoại hay đi học việc bảo vệ làn da và sức khỏe trước tia UV là vô cùng cần thiết.
Một nghiên cứu mới đã tìm hiểu cách thức sucralose, một chất tạo ngọt không calo, ảnh hưởng đến các tín hiệu não bộ liên quan đến cảm giác đói.
Việc ai đó thể hiện tình cảm với bạn có thể khiến bạn cảm thấy vui vẻ và phấn khích khi bạn đang trong giai đoạn đầu của một mối quan hệ mới. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải phân biệt sự mới lạ của một mối quan hệ mới với các hành vi thái quá.
Trong cuộc sống hiện đại, khi thời gian dành cho gia đình ngày càng bị thu hẹp bởi công việc và các thiết bị điện tử, việc tìm kiếm một hoạt động vừa tốt cho sức khỏe vừa giúp gắn kết tình cảm cha con trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Những ngày hè đầy nắng là thời điểm lý tưởng để đưa trẻ ra ngoài chơi, đi biển, cắm trại, picnic,... Tuy nhiên, dành quá nhiều thời gian dưới ánh nắng mặt trời có thể khiến trẻ dễ bị cháy nắng. Cháy nắng nặng không chỉ gây khó chịu mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc các vấn đề sức khỏe về da cho trẻ. Cùng đọc bài viết sau đây để biết cách phòng tránh và xử trí khi trẻ bị cháy nắng.
Mùa hè mang theo những ngày nắng kéo dài, không khí oi bức và nền nhiệt độ cao, tạo nên nhiều thách thức đối với sức khỏe con người. Một trong những ảnh hưởng phổ biến nhưng ít được chú ý là tình trạng đau đầu do nóng.
Chất béo là một trong ba nhóm dưỡng chất thiết yếu, cùng với carbohydrate và protein, có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động sống của cơ thể con người.