Thông kê của Tổ chức Y tế thế giới, ung thư đại trực tràng đứng thứ ba trong số ung thư phổ biến ở nam giới và thứ hai ở nữ. Theo Hội Ung thư Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh này ở nam giới nhiều hơn nữ giới.
Trong suốt cuộc đời, một người đàn ông có 5% nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng và 4% ở nữ giới. Hầu hết bệnh ung thư đại trực tràng giai đoạn đầu có những dấu hiệu sớm nhưng không được chú ý vì vậy nhiều trường hợp chẩn đoán, phát hiện bệnh khi đã tiến triển đến ở giai đoạn muộn, gây khó khăn trong việc điều trị.
Tuổi càng cao càng có nguy cơ bị ung thư đại trực tràng, đặc biệt nguy cơ tăng cao rõ rệt sau 50 tuổi.
Ung thư có thể xuất hiện ở một trong các polyp nằm trải dài trên toàn bộ ống niêm mạc đại trực tràng, nguy cơ tất cả polyp đó đều trở thành tế bào ung thư.
Người bị đa polyp mang tính chất gia đình, nếu không điều trị theo thời gian đến 40 tuổi thì hầu hết polyp sẽ phát triển thành ung thư, ngoài đại trực tràng còn bị ở dạ dày, ruột non, tụy, gan...
Các loại ung thư khác nhau sẽ có các yếu tố nguy cơ khác nhau.
Có một số yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được như: hút thuốc, chế độ ăn… nhưng cũng có các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi như: tuổi, tiền sử gia đình…
Việc có một hoặc thậm chí nhiều yếu tố nguy cơ cũng không có nghĩa là chắc chắn sẽ bị bệnh và ngược lại, một số bệnh nhân bị ung thư nhưng lại không mang yếu tố nguy cơ nào.
Các câp độ của ung thư đại trực tràng.
Với ung thư đại trực tràng, các nhà chuyên môn phân chia các yếu tố nguy cơ bao gồm 2 nhóm:
Các yếu tố nguy cơ ung thư đại trực tràng có thể thay đổi được
- Béo phì.
- Ít hoạt động thể lực.
- Chế độ ăn nhiều thịt đỏ (thịt bò, lợn, cừu, gan) và thịt chế biến công nghiệp (xúc xích, thức ăn nhanh), thịt nấu ở nhiệt độ rất cao (rán, nướng).
- Hút thuốc.
- Uống nhiều rượu bia.
Các yếu tố nguy cơ ung thư đại trực tràng không thể thay đổi được
- Tuổi cao: tuổi càng cao càng có nguy cơ bị ung thư đại trực tràng, đặc biệt nguy cơ tăng cao rõ rệt sau 50 tuổi.
- Tiền sử bị polyp hoặc ung thư đại-trực tràng.
- Tiền sử bị viêm đại-trực tràng, bao gồm cả bệnh Crohn.
- Tiền sử gia đình bị ung thư hoặc polyp dạng tuyến đại-trực tràng: Theo thống kê cứ 1 trong 5 bệnh nhân ung thư đại-trực tràng có thành viên trong gia đình cũng bị ung thư đại-trực tràng, thường gặp nhất ở bố mẹ, anh chị em ruột.
Đại tràng bình thường và đại tràng tiến triển thành ung thư.
- Các hội chứng di truyền: 5 – 10% bệnh nhân ung thư đại-trực tràng có các đột biến gen di truyền, phổ biến nhất là các trường hợp bị đa polyp dạng tuyến gia đình (familial adenomatous polyposis - FAP) và hội chứng Lynch (ung thư đại tràng không đa polyp di truyền – hereditary non-polyposis colon cancer – HNPCC). Các bệnh nhân này thường mắc bệnh khi tuổi còn trẻ.
- Chủng tộc và dân tộc: Người Mỹ gốc Phi và người Do Thái gốc Đông Âu có tỷ lệ mắc và tử vong ung thư đại-trực tràng cao nhất trong các nhóm chủng tộc.
- Đái tháo đường tuýp 2: Bệnh nhân đái tháo đường type 2 có nguy cơ cao và tiên lượng kém hơn khi được chẩn đoán ung thư đại trực tràng.
Nội soi đại tràng để phát hiện sớm ung thư.
Lời khuyên thầy thuốc
HIện nay nguyên nhân chính gây bệnh ung thư đại trực tràng chưa xác chưa xác định được, tuy nhiên người ta nhận thấy có nhiều yếu tố nguy cơ như lớn tuổi, nam giới, chế độ ăn nhiều mỡ và thịt, ít chất xơ, béo phì, hút thuốc lá, polype đại tràng…
Để phòng ngừa ung thư đại trực tràng, mọi người cần lưu ý:
- Hạn chế ăn mỡ, thịt động vật; giảm kcal và chất béo từ 40% xuống 20 - 25%.
- Tăng cường ăn các chất xơ và hoa quả tươi hằng ngày.
- Tăng cường vận động thể chất.
- Hạn chế thức ăn muối, lên men, cá khô, nước tương, thịt xông khói.
- Tránh để những chất gây đột biến gene nhiễm trong thức ăn như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc tăng trọng.
- Hạn chế lạm dụng rượu, bia và các chất lên men khác.
Tham khảo thêm thông tin bài viết: Những cách dự phòng ung thư đại tràng.
Mất nước là tình trạng cơ thể không có đủ chất lỏng để hoạt động bình thường. Vào mùa hè, nguy cơ mất nước thường phổ biến hơn.
Mùa hè với nền nhiệt cao kéo dài và độ ẩm tăng mạnh không chỉ gây khó chịu trong sinh hoạt hàng ngày mà còn ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng giấc ngủ. Cảm giác oi bức khiến việc chìm vào giấc ngủ trở nên khó khăn và thường xuyên bị gián đoạn trong đêm.
Cà phê từ lâu đã trở thành thức uống quen thuộc của hàng triệu người mỗi sáng. Tuy nhiên, uống bao nhiêu là đủ để tốt cho sức khỏe và khi nào thì trở thành quá nhiều?
Khi nước kiềm ngày càng phổ biến, các tuyên bố xung quanh lợi ích sức khỏe và khả năng cải thiện sức khỏe tổng thể của nó cũng tăng theo. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải xem xét kỹ lưỡng những khẳng định này. Vì vậy, hãy cùng tìm hiểu và khám phá sự thật về nước kiềm và những lợi ích thật sự của nước kiềm.
Chất béo thường bị mang tiếng xấu mỗi khi nói về chế độ dinh dưỡng vì cho rằng đó là nguyên nhân gây bệnh tim mạch, tiểu đường hay béo phì. Quan niệm cắt bỏ hoàn toàn chất béo khỏi bữa ăn đã từng phổ biến trong một số khuyến nghị dinh dưỡng. Thực tế, không phải tất cả các chất béo đều có hại.
Chế độ ăn uống lành mạnh không thể thiếu thực phẩm giàu creatine - hợp chất tự nhiên giúp cung cấp năng lượng cho cơ bắp, cải thiện hiệu suất tập luyện và sức khỏe não bộ.
Có rất nhiều loại bệnh võng mạc khác nhau. Những bệnh này có thể do gen di truyền từ cha mẹ hoặc từ tổn thương võng mạc tích lũy trong suốt cuộc đời. Một số loại bệnh võng mạc phổ biến hơn các bệnh khác.
Chuối là một trong những loại thực phẩm có lợi ích dinh dưỡng đáng kể. Vậy khi ăn chuối luộc có tác dụng gì?