Theo kết quả một nghiên cứu mới đây được đăng trên Tạp chí The American Journal of Pathology, bệnh nhân nhiễm biến thể Omicron thường trẻ tuổi hơn và dễ bị nhiễm trùng đột phá hơn. Tuy nhiên, những người nhiễm biến thể Omicron lại ít có nguy cơ phải nhập viện hoặc cần hồi sức tích cực hơn những người nhiễm các biến thể Alpha và Delta trước đó.
1. Nguy cơ lây nhiễm cao của biến thể Omicron
Các nhà nghiên cứu đã phân tích dữ liệu của các bệnh nhân tại Bệnh viện Houston Methodist (Mỹ), nơi mà vào đầu năm 2022, Omicron là nguyên nhân gây ra 98% tổng số ca mắc COVID-19 mới. Theo dữ liệu nghiên cứu, tính tới ngày 05/01/2022, biến thể Omicron đã lây nhiễm ở 4.468 bệnh nhân của bệnh viện này.
Theo nhóm nghiên cứu, chỉ mất khoảng 3 tuần kể từ thời điểm Bệnh viện Houston Methodist xác định bệnh nhân đầu tiên của họ mắc biến thể Omicron cho tới khi biến thể này chiếm hầu hết trong số các ca mắc COVID-19 mới, trong khi để đạt được mức nhiễm này thì biến thể Delta phải mất tới khoảng 3 tháng.
Kết quả cho thấy độ tuổi trung bình của bệnh nhân nhiễm biến thể Omicron là 44,3 tuổi, so với 48,3 tuổi ở bệnh nhân nhiễm biến thể Delta và 50 tuổi ở bệnh nhân nhiễm biến thể Alpha.

Omicron là nguyên nhân gây ra hầu hết các ca mắc COVID-19 mới tại Mỹ.
Kết quả cũng cho thấy, thời gian nằm viện trung bình là 3,2 ngày đối với bệnh nhân nhiễm biến thể Omicron, 5,4 ngày đối với bệnh nhân nhiễm biến thể Delta và 5,1 ngày đối với bệnh nhân nhiễm biến thể Alpha.
Và 55% số ca nhiễm trùng đột phá ở người đã được tiêm chủng là do biến thể Omicron, so với chỉ hơn 5% đối với biến thể Alpha và 0,9% đối với biến thể Delta.
2. Ý kiến chuyên gia
Tính đến giữa tháng 1/2022, Bệnh viện Houston Methodist đã xác định được 3 bệnh nhân nhiễm biến thể Omicron "tàng hình" (BA.2). Đây là 3 trường hợp đầu tiên được phát hiện ở Texas, Mỹ.
Theo nhóm tác giả nghiên cứu, Tiến sĩ James Musser và cộng sự thuộc Bệnh viện Houston Methodist, nghiên cứu này là một trong những nghiên cứu đầu tiên về bệnh nhân nhiễm biến thể Omicron ở Mỹ.
Cho tới nay, Bệnh viện Houston Methodist đã giải mã trình tự gen của gần 80.000 bộ gen SARS-CoV-2 kể từ khi bắt đầu đại dịch, đây là một trong những nghiên cứu bao gồm dữ liệu giải trình tự gen COVID-19 lớn nhất và toàn diện nhất ở Mỹ.
Theo các nhà khoa học, thông thường, virus sẽ liên tục biến đổi và có thể tạo ra các biến thể có nguy cơ gây bệnh nặng hơn hoặc nhẹ hơn trong tương lai.
Tham khảo thêm thông tin bài viết: Đánh giá sơ bộ về biến thể Omicron (B.1.1.529) của WHO.
Cuộc tranh luận về protein động vật và protein thực vật đã kéo dài từ lâu. Sự khác biệt cốt lõi giữa hai nguồn đạm này là gì và nó ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu sức khỏe?
Việc suy giảm hormone không phải là vấn đề riêng của ai cả, đặc biệt là trong mùa đông. Mùa đông gây ảnh hưởng tới rối loạn hormone và nội tiết tố cả ở nam giới và nữ giới.
Loãng xương là tình trạng giảm mật độ và chất lượng xương, làm tăng nguy cơ gãy và làm thay đổi cấu trúc xương theo thời gian. Hậu quả của loãng xương không chỉ dừng lại ở gãy xương mà còn tạo ra một chuỗi hệ lụy trên nhiều phương diện về mặt lâm sàng, hành vi, thói quen hằng ngày, tâm lý, xã hội và kinh tế.
Uống một thìa dầu ô liu giúp bôi trơn đường ruột và hoạt động như một chất nhuận tràng tự nhiên nhẹ. Dầu ô liu kích thích nhu động ruột, làm mềm phân, từ đó giúp giảm táo bón và hỗ trợ tiêu hóa diễn ra trơn tru hơn.
Tăng cholesterol có thể làm tăng huyết áp vì nó góp phần hình thành mảng bám trong động mạch (xơ vữa động mạch). Huyết áp cao có thể xảy ra do tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu.
Cúm A là một bệnh nhiễm virus cấp tính gây ra các triệu chứng khó chịu như sốt cao, đau họng, nhức mỏi toàn thân và mệt mỏi. Chế độ ăn uống khoa học và hợp lý là yếu tố nền tảng giúp tăng cường sức đề kháng, giảm nhẹ triệu chứng, rút ngắn thời gian hồi phục.
Mức collagen bạn nên bổ sung phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ ăn uống, tuổi tác, sức khỏe tổng thể và loại thực phẩm bổ sung. Liều dùng hàng ngày từ 2,5 đến 15 gram có thể an toàn và hiệu quả nếu bạn cần bổ sung collagen cho cơ thể.
Hội chứng ống cổ tay ảnh hưởng tới khoảng 50-60% phụ nữ mang thai và thường gặp ở ba tháng cuối của thai kỳ. Hội chứng này có thể gây ra một số triệu chứng khó chịu cho thai phụ và có thể tự hết sau sinh vài tuần. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp khó chịu mà bạn cần tới gặp bác sĩ ngay. Cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây!