Khi bạn chỉ có đơn độc một trong các chứng này thì không có nghĩa là bạn bị hội chứng chuyển hóa. Tuy vậy, bất kỳ một chứng nào trong số đó cũng đều có thể làm tăng nguy cơ và khi có nhiều hơn các chứng bệnh phối hợp thì nguy cơ càng lớn hơn.
Người mắc hội chứng chuyển hóa (HCCH) thường xuất hiện các triệu chứng: tăng huyết áp, tăng insulin làm rối loạn dung nạp glucose; tăng nồng độ chất béo triglyceride; giảm cholesterol tốt HDL; béo phì.
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Tổ chức Y tế Thế giới, người mắc bệnh sẽ gồm 3 trong 5 dấu hiệu sau: có béo bụng, vòng eo trên 102cm ở nam và trên 88cm ở nữ; tăng triglyceride máu trên 150mg/dl; nồng độ HDL-c dưới 40mg/dl ở nam và dưới 50mg/dl ở nữ; huyết áp trên 130/85mmHg; đường huyết lúc đói trên 110mg/dl.
Người châu Á, trong đó có Việt Nam mắc bệnh gồm các tiêu chuẩn: vòng eo trên 90cm ở nam và trên 80cm ở nữ; đường huyết lúc đói trên 110mg/dl hoặc bị bệnh đái tháo đường; HDL-C dưới 40mg/dl ở nam và dưới 50mg/dL ở nữ; triglyceride trên 150mg/dl; huyết áp trên 130/85mmHg hoặc đang điều trị tăng huyết áp.
HCCH là kết quả của nhiều yếu tố: tuổi tác, bệnh sử gia đình và di truyền (một số gene làm cho dễ mắc hội chứng này), ăn uống không hợp lý, các thay đổi hormon (như ở tuổi sau mãn kinh, hội chứng buồng trứng đa nang ở tuổi sinh đẻ), môi trường sống tĩnh tại, ít hoạt động thể lực, stress... Có càng nhiều yếu tố nguy cơ thì càng có nguy cơ lớn hơn của đái tháo đường và bệnh tim mạch.
Các rối loạn về chuyển hóa kết hợp thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các mảng xơ vữa trong động mạch, làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch và mạch máu não cũng như làm tăng tỷ lệ tử vong do các nguyên nhân này. HCCH dẫn đến tình trạng xơ vữa mạnh ở các mạch máu lớn và nhỏ, trong đó, những vùng thường gặp là: cung (quai) động mạch chủ, động mạch vành; động mạch cảnh trong, động mạch dưới đòn; động mạch não giữa, động mạch thân nền. Phình mạch: hay gặp ở động mạch thân nền, động mạch cảnh trong. Các bệnh động mạch nhỏ.
Mục đích chính của điều trị HCCH là nhằm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và đái tháo đường type 2. Vì vậy, việc thay đổi lối sống là điều quan trọng hàng đầu để đề phòng và giảm nhẹ các nguy cơ ngắn và dài hạn. Can thiệp vào lối sống bao gồm:
Ăn uống hợp lý: Giảm lượng ăn các chất béo và đường; ăn nhiều rau, hạt, củ, quả, thịt nạc và cá, tránh dùng các thực phẩm chế biến với dầu thực vật (dễ tạo ra các acid béo không no), hạn chế dùng các thực phẩm chế biến (thường có nhiều muối và được cho thêm đường).
Chế độ ăn Địa Trung Hải cũng rất đáng tham khảo: giàu mỡ “tốt” (dầu olive), chứa tỷ lệ carbohydrat và protein hợp lý (như cá và gà).
Tập thể dục: Tập nặng vừa phải, ví dụ như đi bộ ít nhất 30 phút mỗi ngày, 5-7 ngày trong tuần.
Giảm cân nặng: Giảm cân nặng giúp giảm nguy cơ bệnh tim. Mục tiêu là giảm 7-10% cân nặng hiện có của bạn, cần ăn giảm 500-1.000 calo/ngày để đạt chỉ số trọng lượng cơ thể (BMI) dưới 25kg/m2.
Giảm LDL-cholesterol và giảm huyết áp: Bằng cách giảm cân, tập thể dục kết hợp dùng thuốc khi cần. Bỏ thuốc lá là yếu tố nguy cơ chính của các vấn đề về tim mạch.
Để phòng tránh các rối loạn chuyển hóa, cần loại bỏ những yếu tố gây xơ vữa động mạch có thể phòng tránh được gồm: tránh béo phì; bỏ hút thuốc lá; điều trị tích cực bệnh tăng huyết áp; kiểm soát tốt bệnh đái tháo đường; điều trị rối loạn lipid máu; tăng cường vận động thể lực; bỏ hẳn hoặc hạn chế uống rượu; tránh mọi căng thẳng (stress); phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn... Ngoài ra, cách đơn giản nhất và hiệu quả nhất là tầm soát sớm theo định kỳ để biết tình trạng sức khỏe của mình và chủ động điều chỉnh. Cần tầm soát định kỳ những bệnh lý thường gặp, tầm soát những nhóm bệnh nhất định trên những đối tượng nhất định (nhóm nguy cơ). Chủ động khám sức khỏe và xét nghiệm định kỳ ít nhất mỗi năm 1 lần. Phát hiện sớm các rối loạn là cách duy nhất để ngăn ngừa nguy cơ bệnh lý diễn ra.
Tham khảo thêm thông tin bài viết: Làm thế nào để đốt cháy calo và thúc đẩy chuyển hóa cho cả ngày dài hoạt động? (Phần 1)
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.