Phụ nữ có thai thường được khuyên hạn chế vận động để tránh nguy cơ đẻ non trước tuần thứ 37 của thai kì. Tập thể dục làm tăng lượng norepinephrine và epinephrine trong máu. Norepinephrine làm tăng cường độ và tần suất co tử cung. Trong khi đó epinephrine có tác động ức chế hoạt động cơ co tử cung.
Tuy nhiên, theo một nghiên cứu được đăng trên American Journal of Obstetrics & Gynecology cùng nhiều nghiên cứu khác trong thời gian gần đây, việc tập thể dục trong khi mang thai không làm hại thai nhi mà ngược lại, lại mang nhiều lợi ích cho người mẹ và đứa trẻ.
Trong 2.059 phụ nữ mang thai tham gia thử nghiệm, 1.022 người được yêu cầu tập thể dục 35-90 phút/lần, 3-4 lần/tuần trong vòng 10 tuần hoặc cho đến khi đẻ. 1.037 người còn lại không tham gia tập thể dục.
Kết quả cho thấy tập thể dục không làm tăng nguy cơ đẻ non. Ngược lại, 73% số người trong nhóm 1 đẻ tự nhiên, con số đó ở nhóm 2 là 67%. Nghiên cứu cũng cho thấy, 17% số phụ nữ tập thể dục khi mang thai phải mổ đẻ, so với 22% ở những người không tập thể dục khi mang thai. Sản phụ khi mổ đẻ có thể gặp nhiều biến chứng nguy hiểm như: huyết khối, nhiễm trùng và các vấn đề nhau thai trong những lần mang thai sau. Ngay cả đứa trẻ cũng đối mặt với nhiều nguy cơ về hô hấp như cơn thở nhanh thoáng qua (thở nhanh bất thường trong những ngày đầu sau sinh), nguy cơ béo phì, phát triển những dị ứng về sau, hen và tiểu đường type 1.
Những kết quả nghiên cứu này cùng chung quan điểm với những hướng dẫn hiện hành của Hiệp hội Sản-Phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG).
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) khuyến khích phụ nữ mang thai tập thể dục nhịp điệu cường độ trung bình ít nhất 150 phút hàng tuần. Cường độ trung bình có nghĩa là vận động đủ để tăng nhịp tim và bắt đầu toát mồ hôi. Nói cách khác, đó là cường độ tập mà bạn vẫn có thể nói chuyện bình thường nhưng không còn đủ sức để hát.
Cần lưu ý nghiên cứu trên được thực hiện ở những phụ nữ mang một thai và không có chống chỉ định tập thể dục như mang song thai, tam thai, tăng huyết áp hoặc thiếu máu.
Như vậy tập thể dục khi mang thai không chỉ giúp duy trì vóc dáng đẹp sau sinh mà còn làm giảm các nguy cơ về sức khỏe cho cả mẹ và bé, giúp bạn có một thai kì khỏe mạnh và an toàn. Hãy tham khảo bác sĩ của bạn để tìm ra chế độ tập luyện phù hợp nhất nhé!
Mùa thu mang đến cảm giác mát mẻ và hương vị ngọt ngào của nhiều loại quả chín mọng. Có một số loại quả mùa thu rất tốt cho người bị táo bón vì chúng chứa nhiều chất xơ, nước và các hợp chất tự nhiên tốt cho đường ruột.
Viêm khớp dạng thấp là một bệnh lý tự miễn mạn tính, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Bệnh không chỉ gây đau đớn ở các khớp mà còn có thể lan rộng đến các cơ quan khác như tim, phổi, mắt, và da.
Quả lựu giàu chất xơ, vitamin và khoáng chất có thể giúp tăng cường sức khỏe một cách đáng ngạc nhiên. Tìm hiểu những tác dụng của việc ăn một quả lựu mỗi ngày.
Tình trạng dương vật bị teo nhỏ một chút khi bạn già đi do sự suy giảm sản xuất testosterone không hiếm gặp, nhưng có những nguyên nhân khác có thể xảy ra bao gồm béo phì, phẫu thuật tuyến tiền liệt, điều trị ung thư tuyến tiền liệt và các tình trạng như bệnh Peyronie. Mặc dù bạn không phải lúc nào cũng tránh được tình trạng teo dương vật nhưng có những điều bạn có thể làm để ngăn ngừa hoặc điều trị một số nguyên nhân nhất định.
Với trẻ trên 5 tuổi, việc bổ sung vi chất vẫn vô cùng cần thiết, bởi đây là độ tuổi vàng để phát triển thể chất, trí tuệ và hình thành nền tảng sức khỏe lâu dài.
Botox (onabotulinumtoxinA) bắt đầu có hiệu lực trong vòng hai đến năm ngày sau khi bạn tiêm. Tuy nhiên, có thể mất đến vài tuần để bạn thấy được kết quả đầy đủ và mốc thời gian cho mỗi cá nhân khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.
Cá mè từ lâu đã được biết đến như một loại thực phẩm quen thuộc của người Việt Nam. Không chỉ là nguyên liệu cho những món ăn dân dã, đậm đà, cá mè còn chứa nhiều lợi ích sức khỏe cho mọi lứa tuổi.
Trong bối cảnh các bệnh tim mạch ngày càng phổ biến và trẻ hóa, việc duy trì một lối sống lành mạnh, đặc biệt là chế độ ăn uống, đóng vai trò then chốt trong việc phòng ngừa cũng như cải thiện chất lượng sống cho người bệnh tim.