Sữa mẹ có đủ dưỡng chất cần thiết cho trẻ
Sữa mẹ có mối quan hệ chặt chẽ và có tính chất quyết định đối với tình trạng dinh dưỡng của trẻ nhỏ. Sữa mẹ giống như vaccine đầu tiên của trẻ sơ sinh, bảo vệ trẻ sơ sinh khỏi các căn bệnh nguy hiểm tiềm ẩn và cung cấp cho trẻ tất cả các dưỡng chất cần thiết để trẻ tồn tại và phát triển.
Nhưng tiếc thay theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), chỉ có 35% trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi trên thế giới được cho bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời và chỉ có 23 quốc gia có tỉ lệ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu của trẻ đạt trên 60% (Việt Nam là 19,5%).
WHO cũng vừa công bố một nghiên cứu cho thấy, nếu tỉ lệ trẻ trên toàn thế giới được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời tăng từ 40% lên 50% trong 10 năm tới, 520.000 trẻ sẽ được cứu sống và thế giới sẽ tiết kiệm được 300 tỉ USD.
Thực hiện việc nuôi con bằng sữa mẹ: bú sớm, bú hoàn toàn… là rất cần thiết vì mang lại nhiều lợi ích sức khỏe cho trẻ. Cho trẻ da kề da với mẹ ngay sau khi sinh. Việc này sẽ giúp giữ ấm cho trẻ và giúp trẻ dễ thở, giúp trẻ có thể ngậm bắt vú dễ dàng và giúp mẹ con thấy gần gũi với nhau hơn.
Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho sự phát triển của trẻ nhưng với điều kiện mẹ phải có chế độ dinh dưỡng đầy đủ.
Cho trẻ bú sớm trong vòng một giờ đầu sau khi sinh. Bú sớm giúp trẻ tập bú mẹ khi vú mẹ còn mềm và giúp co hồi tử cung mẹ, giúp mẹ giảm mất máu.
Cho trẻ bú sữa non. Sữa non là loại sữa có màu vàng và đặc rất tốt cho sức khỏe của trẻ. Sữa non giúp trẻ phòng ngừa nhiều bệnh và đào thải phân su để trẻ bớt bị vàng da sau sinh.
Nhiều năm nay các bệnh viện sản đã tạo điều kiện cho con được gần với mẹ ngay sau khi sinh trong những ca đẻ thường, tuy nhiên với những ca sinh mổ, thường phải sau vài tiếng đồng hồ khi mẹ tỉnh lại sau gây mê mới có thể gần và chăm sóc con nên chưa tận dụng được nguồn sữa non cho con bú ngay, vì vậy việc hạn chế tỉ lệ sinh mổ là điều rất cần lưu ý đối với các sản phụ và các y bác sĩ chuyên khoa sản.
Không nên cho trẻ uống nước hoặc các dung dịch khác trong những ngày đầu sau sinh. Việc làm này không cần thiết và gây các vấn đề không tốt cho sức khỏe trẻ sơ sinh (không đảm bảo dinh dưỡng cần thiết cho trẻ, không đảm bảo vệ sinh thực phẩm gây nhiễm khuẩn...).
Sữa mẹ cung cấp đầy đủ thức ăn và nước uống mà trẻ cần trong 6 tháng đầu đời. Không cho trẻ ăn/uống gì khác, kể cả nước trắng trong 6 tháng đầu. Ngay cả khi trời nóng, sữa mẹ cũng đủ để giải khát cho trẻ. Việc cho trẻ ăn/uống ngoài sữa mẹ sẽ làm giảm việc bú mẹ của trẻ và do đó sẽ làm mẹ giảm tiết sữa. Nước trắng và các loại dung dịch/ thức ăn khác có thể làm trẻ bị bệnh. Tuy nhiên, bà mẹ vẫn có thể cho con uống thuốc nếu được cán bộ y tế chỉ định.
Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho sự phát triển của trẻ nhưng với điều kiện mẹ phải có chế độ dinh dưỡng đầy đủ. Thiếu dinh dưỡng ảnh hưởng đến sức khỏe mẹ gây khó khăn trong việc chăm sóc con và cho con bú.
Mẹ thiếu dinh dưỡng có thể hạn chế khối lượng và chất lượng sữa, giảm nguồn cung cấp thức ăn lý tưởng nhất cho trẻ, là nguyên nhân suy dinh dưỡng, tăng nguy cơ mắc bệnh và tử vong cho trẻ. Vì vậy lưu ý mẹ không nên ăn uống kiêng khem mà cần ăn đa dạng thực phẩm, đảm bảo đủ đạm, béo, chất bột, vitamin và khoáng chất.
Nguyên tắc ăn bổ sung cho trẻ
TS.BS Phan Bích Nga, Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho biết, khi trẻ tròn 6 tháng là lúc cần được ăn thêm các thực phẩm ngoài sữa mẹ gọi là chế độ ăn bổ sung: vì chúng bổ sung cho sữa mẹ, chứ không hoàn toàn thay thế được sữa mẹ để cung cấp đủ chất dinh dưỡng. Thức ăn bổ sung phải là các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng và đủ về mặt số lượng để trẻ có thể tiếp tục phát triển.
Hướng dẫn chế biến thức ăn ổ sung cho trẻ ăn dặm.
Từ 6 tháng tuổi nhu cầu phát triển thể chất của trẻ tăng nhiều vì vậy nhu cầu dinh dưỡng của trẻ cũng tăng lên và sữa mẹ không thể đáp ứng nhu cầu này. Do đó, cần cho trẻ ăn bổ sung ngoài sữa mẹ.
Từ 6 - 12 tháng tuổi, cần tiếp tục cho trẻ bú mẹ bên cạnh ăn bổ sung vì sữa mẹ tiếp tục cung cấp hơn một nửa nhu cầu dinh dưỡng của trẻ và từ 12 - 24 tháng, sữa mẹ cung cấp ít nhất một phần ba nhu cầu dinh dưỡng của trẻ. Ngoài ra, sữa mẹ còn tiếp tục cung cấp các yếu tố kháng khuẩn bảo vệ trẻ khỏi mắc nhiều loại bệnh, mang lại sự gần gũi và gắn bó giúp trẻ phát triển tâm lý.
Mỗi nhóm thức ăn có thể cung cấp các chất dinh dưỡng khác nhau. Do vậy, cần đa dạng các thực phẩm. Bữa ăn cần đảm bảo cho trẻ được ăn đủ 4 nhóm thực phẩm gồm đạm, béo, tinh bột, vitamin và khoáng chất.
Cho trẻ ăn từ lỏng tới đặc (thời gian tập cho ăn bột loãng chỉ từ 2 - 3 ngày, sau đó cho ăn đặc), từ ít tới nhiều, tập cho trẻ ăn quen dần với thức ăn mới.
Tăng thêm năng lượng của thức ăn bổ sung bằng cách cho thêm dầu, mỡ hoặc vừng, lạc (mè, đậu phộng) làm cho bát bột vừa thơm, vừa béo, mềm, trẻ dễ nuốt, lại cung cấp thêm năng lượng giúp trẻ mau lớn.
Đảm bảo vệ sinh ăn uống, chế biến thực phẩm cho trẻ để tránh gây rối loạn tiêu hóa. Rửa sạch tay trước khi chế biến thức ăn và khi cho trẻ ăn.
Không cho trẻ ăn bánh, kẹo, uống nước ngọt trước bữa ăn vì chất ngọt làm tăng đường huyết, gây ức chế tiết dịch vị, làm trẻ chán ăn, trẻ sẽ bỏ bữa hoặc ăn ít đi trong bữa ăn.
Khi cho trẻ ăn cần kiên nhẫn, luôn khuyến khích động viên để trẻ ăn tốt hơn.
Số lượng bữa ăn bổ sung trong ngày
6 - 8 tháng: bú mẹ là chính, tập cho trẻ ăn từ bột loãng trong vòng vài ngày sau đó tăng dần lên 2 bữa bột mỗi ngày và nấu đặc dần.
9 - 11 tháng: vẫn bú mẹ là chính + 2 - 3 bữa bột đặc mỗi ngày + quả nghiền.
Trẻ 1 - 2 tuổi: ngoài sữa mẹ, ăn thêm 3 - 4 bữa/ngày, có thể nấu theo kiểu cháo, súp, cơm xay hỗn hợp.
Một số sai lầm hay gặp khi cho trẻ ăn bổ sung
Không cho trẻ ăn cái mà chỉ ăn nước hầm: lưu ý các loại đạm đều nằm ở phần cái của thịt, cá tôm, trứng, hầu như không ra nước hầm.
Ít sử dụng dầu mỡ trong bữa ăn của trẻ: đây là nguồn cung cấp năng lượng chính trong bữa ăn và giúp hấp thu các vitamin tan trong chất béo như A, D, E, K.
Không cho trẻ ăn các loại rau củ hoặc ăn quá nhiều rau củ: chỉ lấy nước luộc rau để quấy bột cho trẻ làm trẻ thiếu vitamin chất xơ hoặc cho ăn quá nhiều rau củ gây quá thừa chất xơ nhưng năng lượng khẩu phần thấp vì rau củ cung cấp rất ít năng lượng.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Dinh dưỡng để thai nhi phát triển tốt nhất.
Nói đến phát triển chiều cao, chắc chắc phải nói đến canxi và vitamin D – những thành phần cốt lõi cho sự phát triển và duy trì sức khỏe của xương. Các bằng chứng khoa học gần đây chứng minh rằng, cùng với canxi và vitamin D còn có vai trò vô cùng quan trọng của vitamin K2. Một số nghiên cứu gần đây đã cho thấy vitamin K2 có thể tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng chiều cao của trẻ, đặt ra vấn đề cấp thiết cần cung cấp đủ K2 trong những giai đoạn vàng của sự phát triển ở trẻ nhỏ.
Vitamin D3 và K2 là hai vi chất thiết yếu giúp trẻ phát triển hệ xương chắc khỏe và tăng trưởng chiều cao tối ưu. Tuy nhiên, không phải cứ bổ sung là cơ thể sẽ hấp thu hiệu quả. Thực tế, cả vitamin D3 và K2 đều là vitamin tan trong dầu, và đặc tính này khiến chúng rất khó hấp thu qua đường tiêu hóa, đặc biệt là ở trẻ nhỏ. Việc bổ sung mà không có sự hỗ trợ của công nghệ có thể dẫn đến hấp thu kém, giảm hiệu quả và gây lãng phí.
Các bệnh về gan ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn cầu. Chế độ ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của gan.
Có thể bạn uống quá liều cà phê hay uống một ly nước tăng lực, bạn gặp dấu hiệu run rẩy, nhịp tim không đều, đau bụng và các tác dụng phụ khác của caffeine. Từ việc uống nước đến ăn chuối, hãy tìm hiểu cách thực sự hiệu quả để trung hòa tác dụng của quá nhiều caffeine.
Vitamin D3 (cholecalciferol) và vitamin K2 (menaquinone) là hai vi chất dinh dưỡng đóng vai trò thiết yếu trong quá trình chuyển hóa canxi và phát triển hệ xương. Trong bối cảnh trẻ em có xu hướng giảm đáng kể tiếp xúc với ánh nắng tự nhiên (nguồn tổng hợp chính của vitamin D3) và chế độ ăn uống của trẻ không đảm bảo đủ lượng vitamin K2, việc bổ sung phối hợp hai vi chất này thông qua các sản phẩm bổ sung ngày càng được quan tâm của các chuyên gia dinh dưỡng nhi khoa cũng như các bậc cha mẹ.
Suy thận thường được coi là bệnh của người lớn tuổi nhưng thực tế, các yếu tố nguy cơ và thói quen ăn uống không lành mạnh ở một bộ phận người trẻ có thể âm thầm dẫn đến suy thận.
Trong suốt lịch sử y học, tiêm chủng được coi là một trong những phát minh quan trọng nhất, mang lại khả năng phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn tồn tại không ít lo ngại và hiểu lầm về quy trình và tác dụng của việc tiêm vaccine.
Vitamin D3 (cholecalciferol) là một vi chất dinh dưỡng thiết yếu, có vai trò trung tâm trong quá trình khoáng hóa xương, chuyển hóa canxi–phospho, hỗ trợ hệ miễn dịch, điều hòa nội tiết và góp phần phòng ngừa nhiều bệnh mạn tính. Các thụ thể vitamin D được tìm thấy ở hầu hết các mô trong cơ thể, cho thấy phạm vi ảnh hưởng sinh học rất rộng của vitamin D(1).