HIV tiếp tục là một vấn đề sức khỏe cộng đồng toàn cầu, đã cướp đi sinh mạng của 36,3 triệu cho đến nay.
Năm 2020, 680.000 người chết vì các nguyên nhân liên quan đến HIV và 1,5 triệu người nhiễm HIV.
Để đạt được các mục tiêu toàn cầu 95–95–95 (95% số người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình; 95% số người biết tình trạng HIV của mình đang được điều trị và 95% trong số những người đang được điều trị có tải lượng HIV được ức chế và giảm khả năng lây truyền virus HIV cho người khác), cần phải nỗ lực gấp đôi để ngăn ngừa 7,7 triệu ca tử vong liên quan đến HIV trong 10 năm tới, giảm các ca nhiễm HIV do dịch vụ bị gián đoạn trong đại dịch COVID-19 và phản ứng của sức khỏe cộng đồng đối với HIV chậm lại.
Virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) nhắm vào hệ thống miễn dịch và làm suy yếu khả năng phòng thủ của con người chống lại nhiều bệnh nhiễm trùng và một số loại ung thư mà những người có hệ thống miễn dịch khỏe mạnh có thể chống lại. Khi virus phá hủy và làm suy giảm chức năng của các tế bào miễn dịch, những người bị nhiễm bệnh dần dần bị suy giảm miễn dịch. Chức năng miễn dịch thường được đo bằng số lượng tế bào CD4.

HIV gây suy giảm miễm dịch ở người.
Nếu không được điều trị HIV có thể dẫn đến AIDS (hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải. Đây là giai đoạn tiến triển nhất của nhiễm HIV). Giai đoạn này có thể mất nhiều năm tùy thuộc vào từng cá nhân. AIDS được định nghĩa bởi sự phát triển của một số nhiễm trùng cơ hội bao gồm các bệnh ung thư, nhiễm trùng hoặc các biểu hiện lâm sàng dài hạn nghiêm trọng khác.
1. Các dấu hiệu và triệu chứng của nhiễm HIV
Các triệu chứng của HIV khác nhau tùy thuộc vào giai đoạn nhiễm trùng. Mặc dù những người sống chung với HIV có xu hướng dễ lây nhiễm nhất trong vài tháng đầu sau khi bị nhiễm, nhưng nhiều người không biết về tình trạng của mình cho đến khi có triệu chứng.
Trong vài tuần đầu tiên sau khi bị nhiễm trùng ban đầu:
Có thể không có triệu chứng
Hoặc bị bệnh giống cúm bao gồm: Sốt, nhức đầu, phát ban hoặc đau họng.
Khi nhiễm trùng tiến triển làm suy yếu hệ thống miễn dịch, có thể thể phát triển các dấu hiệu và triệu chứng khác, chẳng hạn như:
Sưng hạch bạch huyết
Giảm cân
Sốt
Tiêu chảy
Ho.
Nếu không được điều trị, có thể phát triển các bệnh nặng như bệnh lao (TB), viêm màng não do cryptococcus, nhiễm trùng nặng do vi khuẩn và ung thư như u lympho và sarcoma Kaposi.
2. Đường lây truyền HIV
HIV có thể lây truyền qua việc tiếp xúc với nhiều loại dịch cơ thể từ người nhiễm bệnh, chẳng hạn như:
Máu
Sữa mẹ
Tinh dịch
Dịch tiết âm đạo
HIV có thể lây truyền từ mẹ sang con khi mang thai và sinh nở.
HIV không lây nhiễm qua tiếp xúc thông thường hàng ngày như:
Hôn
Ôm
Bắt tay
Dùng chung đồ vật cá nhân, thức ăn hoặc nước uống.
3. Các yếu tố rủi ro làm tăng nguy cơ nhiễm HIV
Các hành vi khiến các cá nhân có nguy cơ lây nhiễm HIV cao hơn bao gồm:
Quan hệ tình dục không được bảo vệ;
Dùng chung bơm kim tiêm, dụng cụ tiêm chích khác và các dung dịch thuốc khi tiêm chích ma tuý bị nhiễm bẩn;
Tiêm chích, truyền máu và cấy ghép mô không an toàn, và các thủ thuật y tế liên quan đến việc cắt hoặc xỏ lỗ không cẩn thận;
Gặp chấn thương do kim đâm ngẫu nhiên, bao gồm cả các nhân viên y tế...
4. Chẩn đoán nhiễm HIV
HIV có thể được chẩn đoán thông qua các xét nghiệm chẩn đoán nhanh cung cấp kết quả ngay trong ngày. Điều này tạo điều kiện thuận lợi đáng kể cho việc chẩn đoán sớm và liên kết với việc điều trị và chăm sóc.
Mọi người cũng có thể sử dụng các phương pháp tự xét nghiệm HIV để tự kiểm tra.
Tuy nhiên, không có xét nghiệm đơn lẻ nào có thể cung cấp chẩn đoán HIV đầy đủ và cần phải có xét nghiệm khẳng định, được tiến hành tại cơ sở y tế.

Lấy máu xét nghiệm HIV.
Nhiễm HIV có thể được phát hiện với độ chính xác cao bằng cách sử dụng các xét nghiệm đủ tiêu chuẩn của WHO trong chiến lược xét nghiệm được phê duyệt.
Hầu hết các xét nghiệm chẩn đoán HIV được sử dụng rộng rãi đều phát hiện ra các kháng thể do người đó tạo ra như một phần của phản ứng miễn dịch của họ để chống lại HIV.
Trong hầu hết các trường hợp, cơ thể sẽ phát triển các kháng thể chống lại HIV trong vòng 28 ngày kể từ khi bị nhiễm. Trong thời gian này, người bệnh trải qua giai đoạn "cửa sổ" - khi các kháng thể HIV chưa được sản xuất ở mức đủ cao để được phát hiện bằng các xét nghiệm tiêu chuẩn và khi họ có thể không có dấu hiệu nhiễm HIV, nhưng cũng là khi họ có thể truyền HIV cho người khác.
Sau khi bị nhiễm, một cá nhân có thể truyền HIV cho bạn tình hoặc dùng chung ma túy, phụ nữ có thể truyền HIV sang con của họ trong thời kỳ mang thai hoặc thời kỳ cho con bú.
Sau khi chẩn đoán dương tính, người nhiễm HIV nên được kiểm tra lại trước khi đăng ký điều trị và chăm sóc để loại trừ bất kỳ lỗi xét nghiệm nào. Đáng chú ý, khi đã được chẩn đoán nhiễm HIV và đã bắt đầu điều trị, không nên xét nghiệm lại.
Mặc dù xét nghiệm cho thanh thiếu niên và người lớn đã được thực hiện đơn giản và hiệu quả, nhưng điều này không xảy ra đối với trẻ sinh ra từ mẹ dương tính với HIV. Đối với trẻ dưới 18 tháng tuổi, xét nghiệm huyết thanh học không đủ để xác định nhiễm HIV - xét nghiệm virus học phải được thực hiện ngay khi mới sinh hoặc khi trẻ được 6 tuần tuổi. Các công nghệ mới hiện đang trở nên sẵn có để thực hiện xét nghiệm này tại điểm chăm sóc và cho kết quả ngay trong ngày, điều này sẽ thúc đẩy mối liên kết thích hợp với việc điều trị và chăm sóc.
5. Phòng ngừa nhiễm HIV như thế nào?
Có thể giảm nguy cơ lây nhiễm HIV bằng cách hạn chế tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ. Các phương pháp tiếp cận chính để phòng chống HIV, thường được sử dụng kết hợp, bao gồm:
Sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục.
Xét nghiệm và tư vấn HIV và STIs.
Xét nghiệm và tư vấn về mối liên hệ với chăm sóc bệnh lao (TB).
Sử dụng thuốc kháng virus (ARV) để dự phòng.
Giảm tác hại cho người tiêm chích và sử dụng ma tuý.
Loại trừ lây truyền HIV từ mẹ sang con (MTCT).

Thuốc kháng virus giúp ngăn chặn sự nhân lên của HIV trong cơ thể.
Nhiễm HIV có thể được quản lý bằng các phác đồ điều trị bao gồm sự kết hợp của ba loại thuốc kháng virus (ARV) trở lên. Mặc dù, liệu pháp kháng virus hiện tại không chữa khỏi nhiễm HIV nhưng ngăn chặn rất nhiều sự nhân lên của virus trong cơ thể và cho phép phục hồi hệ thống miễn dịch để củng cố và lấy lại khả năng chống lại các bệnh nhiễm trùng cơ hội và một số bệnh ung thư.
Tham khảo thêm thông tin bài viết: Những dấu hiệu cho thấy bạn có thể đã nhiễm HIV.
Mái tóc khỏe, óng mượt luôn là mong muốn của nhiều người. Khi xu hướng chăm sóc tóc và da bằng nguyên liệu tự nhiên ngày càng phổ biến, nhiều người có xu hướng tìm kiếm những phương pháp chăm sóc tóc tại nhà vừa an toàn, vừa hiệu quả để duy trì vẻ đẹp bền vững.
Vi nhựa, những mảnh vụn nhựa li ti hiện diện khắp mọi nơi - từ không khí, nước, đất, đến thực phẩm - đang dần trở thành một mối lo ngại lớn về sức khỏe.
Để bảo vệ đôi môi, chúng ta thường sử dụng son dưỡng môi, giúp duy trì độ ẩm và ngăn ngừa tình trạng khô môi. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm thương mại chứa các chất hóa học, một số nguyên liệu tự nhiên có thể được tận dụng như các biện pháp khắc phục tại nhà an toàn và hiệu quả.
Bạn có thường xuyên quên những điều nhỏ nhặt như tên người quen hay vị trí chìa khóa không? Trí nhớ suy giảm là một phần tự nhiên của quá trình lão hóa, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận nó.
Vỏ của nhiều loại trái cây và rau củ có chứa các dưỡng chất có lợi cho sức khỏe như chất xơ, vitamin, khoáng chất, chất chống oxy hóa, giúp tăng cường hệ miễn dịch, cải thiện tiêu hóa...
Gừng thường được coi là nguyên liệu chính trong các phương pháp tự nhiên để giảm bớt các vấn đề về tiêu hóa. Mặc dù gừng là một lựa chọn tốt nhưng có một số loại thực phẩm khác có thể hỗ trợ tiêu hóa hiệu quả hơn.
Giấc ngủ là một phần thiết yếu của cuộc sống, chiếm khoảng 1/3 thời gian của chúng ta, mặc dù nó khiến cơ thể dễ bị tổn thương. Điều này là do giấc ngủ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tái tạo năng lượng, duy trì sức khỏe tổng thể, hỗ trợ chức năng não bộ, cải thiện trí nhớ, tăng cường hệ miễn dịch và giảm nguy cơ mắc các bệnh lý nghiêm trọng. Bài viết này sẽ đi sâu vào những lợi ích này và hướng dẫn cách tối ưu hóa giấc ngủ để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Cuộc tranh luận về protein động vật và protein thực vật đã kéo dài từ lâu. Sự khác biệt cốt lõi giữa hai nguồn đạm này là gì và nó ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu sức khỏe?