Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Hiểu biết để hạn chế phản ứng phụ khi tiêm vaccin

Những sự kiện liên quan đến tiêm vaccin cho trẻ gần đây đã gây tâm lý hoang mang, lo lắng cho nhiều gia đình có trẻ nhỏ trong độ tuổi tiêm chủng. Tuy nhiên, tiêm vaccin hiện nay vẫn là biện pháp phòng bệnh hữu hiệu nhất được tất cả các nước áp dụng, nhất là đối với trẻ em.

Đối với mỗi loại vaccin, cần lưu ý những điểm sau:

Đối với tiêm phòng lao

Việc phòng lao cho trẻ sơ sinh được thực hiện bằng cách tiêm vaccin BCG ngay trong tuần đầu sau sinh. Thuốc được tiêm trong da. Sau khi tiêm, có thể nổi mẩn đỏ, sưng tấy nhẹ, hoặc loét tại chỗ tiêm. Không nên tiêm cho trẻ bị viêm da có mủ, đang bị sốt, bị tiêu chảy, suy dinh dưỡng, bệnh tai mũi họng, viêm phổi, vàng da,... Việc tiêm BCG có hiệu quả lâu dài, nhưng không được dùng cho những người đã bị lao. Trẻ nhiễm HIV vẫn nên tiêm phòng lao, ngoại trừ bệnh đã diễn tiến sang giai đoạn AIDS.

Cần theo dõi những phản ứng khi cho trẻ đi tiêm chủng. Ảnh: Trần Minh

Đối với tiêm phòng bạch hầu, uốn ván, ho gà, viêm phổi, viêm màng não, viêm gan B

Theo lịch tiêm chủng, trẻ được tiêm 3 liều cách nhau khi đủ 1 tháng, đủ 2 tháng và đủ 3 tháng. Thuốc có hiệu quả bảo vệ trong nhiều năm sau khi đã tiêm đủ liều. Tại chỗ tiêm ngừa có thể bị nổi mẩn đỏ, sưng đau nhẹ, gây sốt 38 - 39oC. Trong trường hợp trẻ đang mắc bệnh nhiễm khuẩn, sốt cao, rối loạn thần kinh... không nên tiêm ngừa vaccin này.

Đối với tiêm phòng bệnh bại liệt

Trẻ sẽ được chủng ngừa sốt bại liệt cùng lúc với tiêm ngừa bạch hầu, uốn ván, ho gà bằng thuốc ngừa dạng uống (vaccin Sabin): uống 3 lần vào lúc 2 tháng tuổi, 3 tháng tuổi và 4 tháng tuổi. Trẻ sẽ được bảo vệ trong 10 năm. Sau khi uống thuốc ngừa, trẻ có thể bị nhức đầu, đau cơ hoặc tiêu chảy... Tuyệt đối không được cho uống Sabin ngừa sốt bại liệt trong lúc trẻ đang bị sốt, bị nôn, tiêu chảy, đang được điều trị bằng thuốc corticoid, mắc bệnh ác tính (u lympho, bạch cầu cấp...) hoặc bị nhiễm HIV. Không cho các cháu uống thuốc Sabin đồng thời với vaccin thương hàn uống. Với một số trường hợp trẻ không uống được, nên dùng vaccin dạng tiêm (vaccin Salk).

Đối với tiêm phòng sởi

Trẻ được chủng ngừa bệnh sởi khi đã đủ 9 tháng tuổi và nhắc lại khi đủ 18 tháng. Thuốc được tiêm dưới da và có tác dụng bảo vệ trong nhiều năm. Sau khi tiêm, có thể có phản ứng tại chỗ tiêm: sưng đỏ, nổi mụn nước. Trẻ cũng có thể bị sốt, ho, sổ mũi và nhức đầu. Khi trẻ đang sốt cao, bị suy giảm miễn dịch do có HIV, cần hoãn tiêm thuốc ngừa bệnh sởi.

Đối với vaccin phòng bệnh viêm gan B

Hầu hết các vaccin ngừa viêm gan B đều rất an toàn. Một số ít các trường hợp có thể bị sốt nhẹ, đau chỗ tiêm, nôn ói, chóng mặt, mệt mỏi, đau cơ sau khi tiêm. Đối với trẻ sinh ra nhẹ cân cần chờ cho đến khi trẻ được 2kg hoặc từ 2 tháng tuổi mới bắt đầu tiêm ngừa viêm gan B. Hiện nay, ngành y tế đã và đang triển khai tiêm loại vaccin 5 trong 1 được nhập khẩu từ nước ngoài (Quinvaxem) để hạn chế việc trẻ phải tiêm chủng nhiều lần. Đây là loại vaccin đã được đã được WHO  kiểm định với chỉ một mũi tiêm nhưng phòng được tất cả các bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan B và viêm màng não mủ (Hib), thay cho việc phải sử dụng nhiều mũi tiêm ngừa như trước đây trong chương trình tiêm chủng mở rộng.

Cha mẹ cần có kiến thức khi đưa con đi tiêm chủng.

Lời khuyên cho các bậc cha mẹ khi đưa trẻ đi tiêm phòng

Tiêm vaccin là biện pháp kinh tế, hiệu quả cao để phòng nhiều bệnh nguy hiểm. Việc gần đây có một số tai biến sau khi tiêm chưa hẳn là do vaccin kém chất lượng mà có thể do thời điểm tiêm vaccin đối với từng trường hợp cụ thể không thích hợp. Vaccin cũng là một loại thuốc nên cũng có thể gây ra tình trạng dị ứng từ nhẹ đến nặng.

Các bậc phụ huynh khi đưa trẻ đến tiêm vaccin cần thông báo rõ tình trạng sức khỏe của con em mình và cán bộ y tế cũng cần xem xét cẩn thận trước khi tiêm cho các cháu. Nếu trẻ có tiền sử dị ứng với thuốc hoặc các chất lạ khác cần phải hết sức thận trọng và phải ghi trong sổ theo dõi tiêm chủng của trẻ.

Phản ứng phụ khi tiêm vaccin có thể xảy ra. Tuy nhiên, phụ huynh không nên quá hoang mang vì những phản ứng nguy hiểm rất hiếm gặp. Các bậc cha mẹ nên tìm hiểu kỹ thông tin về những phản ứng phụ ngay tại điểm tiêm chủng để làm chủ được những phản ứng sau tiêm ở trẻ. Những phản ứng nguy hiểm thường chỉ xảy ra trong vòng 30 phút sau tiêm nên phụ huynh cần lưu lại thêm 30 phút tại điểm tiêm chủng để được theo dõi và xử lý kịp thời nếu trẻ xuất hiện tình trạng: nổi ban, mề đay, sưng môi, phù mắt, khó thở, mất tri giác.

Sau thời gian 30 phút, phụ huynh cần theo dõi trẻ tại nhà ít nhất 24 giờ. Trong thời gian này trẻ sẽ gặp những phản ứng thông thường: đau nơi tiêm, quấy khóc, biếng ăn, nổi ban, sốt nhẹ. Các phản ứng nặng rất hiếm gặp cần được can thiệp y tế gồm: sốt cao trên 390C, khóc thét kéo dài, tím tái, khó thở, co gồng và các biểu hiện bất thường khác. Trong trường hợp này, trẻ cần được nhanh chóng đưa đến bệnh viện để được chăm sóc.

ThS. Lê Quốc Thịnh - Theo SKĐS
Bình luận
Tin mới
  • 18/08/2025

    Sức khỏe tinh thần người cao tuổi tại Việt Nam: thực trạng, thách thức và giải pháp hướng tới một xã hội già hóa khỏe mạnh

    Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.

  • 18/08/2025

    Tiêu chảy mùa mưa lũ: Nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng tránh

    Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.

  • 17/08/2025

    8 nguyên nhân gây ra tình trạng răng khấp khểnh

    Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.

  • 16/08/2025

    Tác động của mạng xã hội đến sức khỏe tinh thần giới trẻ

    Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.

  • 16/08/2025

    Tầm quan trọng của việc tiêm chủng cho trẻ em và người lớn

    Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.

  • 15/08/2025

    Ăn bao nhiêu rau quả mỗi ngày là đủ?

    Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?

  • 15/08/2025

    Người cao tuổi vẫn có thể bị suy dinh dưỡng?

    Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.

  • 15/08/2025

    Báo cáo trường hợp: Sốc nhiễm trùng kèm viêm da, cân cơ hoại tử do nhiễm Vibrio vulnificus qua vết thương ở da

    Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.

Xem thêm