Về dinh dưỡng
Trẻ thật sự cần những thức ăn bổ sung để cơ thể phát triển khỏe mạnh, vì nguồn sữa mẹ sau 6 tháng đã không đủ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng hàng ngày của trẻ nữa. Bên cạnh đó ở giai đoạn này bé còn có những mốc phát triển mà cha mẹ cần nắm rõ để giúp bé phát triển khỏe mạnh.

Ở giai đoạn bé 6 tháng tuổi, trẻ chính thức bước sang một giai đoạn mới.
Bé 6 tháng tuổi biết làm gì?
Đối với bé 6 tháng khi nằm ngửa, bé có thể bỏ chân vào miệng. Bé có thể lăn từ thế nằm ngửa sang nằm sấp, sấp sang ngửa. Khi nằm ngửa, bé có thể bỏ chân vào miệng và có thể trườn về trước khi nằm sấp.

Bé cũng có thể cầm nắm đồ vật và chuyển đồ vật từ tay này sang tay kia.
Bé có thể ngồi mà không cần phải đỡ nhiều. Bé cũng có thể cầm nắm đồ vật và chuyển đồ vật từ tay này sang tay kia, hoặc với tay lấy đồ vật. Ở tuổi này có thể có một hoặc hai chiếc răng.
Ở độ tuổi 6 tháng, bé có thể nhận ra ai là người lạ, không theo bố và bà khi không thích hoặc chỉ theo mẹ. Bé đã nhận biết được khi có người gọi tên mình, mắt bé sẽ dõi theo hướng của người gọi.
Bé có thể mỉm cười và cười thành tiếng. Bé cực kỳ thích nghe người khác nói chuyện với mình hoặc chơi với mình, đặc biệt là cha mẹ. Đặc biệt, bé 6 tháng tuổi có thể bập bẹ (phát âm các phụ âm) và kêu ré lên. Nếu bị lấy mất đồ chơi, bé có thể sẽ tỏ ra khó chịu và khóc.

Đối với bé 6 tháng tuổi bé có thể lăn từ thế nằm ngửa sang nằm sấp.
Lưu ý về chế độ dặm của bé 6 tháng tuổi
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, trẻ sẽ được tập cho ăn dặm khi tròn 6 tháng tuổi vì lúc này hệ tiêu hóa của trẻ đã phát triển khá hoàn chỉnh, nên có thể hấp thu những thức ăn đặc và phức tạp hơn so với sữa mẹ. Giai đoạn này chuyên gia dinh dưỡng khuyến khích các bậc phụ huynh nên bắt đầu giai đoạn cho trẻ ăn dặm khi trẻ được 6 tháng tuổi và kết thúc ở tháng thứ 24.
Nếu cho trẻ ăn dặm quá sớm sẽ không có lợi cho trẻ, vì hệ tiêu hóa của trẻ dưới 6 tháng tuổi chỉ chấp nhận và thích hợp với việc tiêu hóa các thức ăn lỏng như sữa mẹ. Nhiều cha mẹ cố gắng chế biến thức ăn ở mức độ lỏng như sữa mẹ để bổ sung cho bé. Tuy nhiên giá trị dinh dưỡng của loại sản phẩm chế biến này thấp không đủ để đảm bảo cho sự phát triển bình thường của trẻ.
Ngược lại, nếu cho trẻ ăn dặm quá muộn sau 6 tháng tuổi, trẻ thường bị thiếu dinh dưỡng do đậm độ các chất dinh dưỡng trong thức ăn lỏng không đủ đáp ứng nhu cầu hàng ngày của trẻ trên 6 tháng tuổi, làm cho trẻ chậm lớn và dễ bị mắc các bệnh nhiễm trùng vì hệ miễn dịch của trẻ quá yếu kém.

Nên bắt đầu giai đoạn cho trẻ ăn dặm khi trẻ được 6 tháng tuổi.
Vì vậy, bé 6 tháng tuổi nên tiếp tục được cho bú sữa mẹ hoặc uống sữa công thức bổ sung chất sắt dành cho trẻ nhỏ như là nguồn dinh dưỡng chính.
Về việc bổ sung nước trái cây với trẻ 6 tháng tuổi: Ở tháng tuổi này nước trái cây chưa cần thiết, nhưng nếu vẫn muốn cho bé uống thì không uống quá 120 -180 ml mỗi ngày. Có thể pha thêm nước và trái cây để làm loãng.
Có thể cho bé ăn thức ăn đóng hộp hoặc các loại thịt, rau quả và trái cây xay tự làm ở nhà.
Ngoài ra, bé cũng có thể ăn các loại ngũ cốc có bổ sung chất sắt một hoặc hai lần mỗi ngày. Cho bé làm quen với chỉ một loại thức ăn mới mỗi lần.
Dùng các loại thức ăn chỉ có một thành phần để có thể xác định bé có phản ứng dị ứng với loại thức ăn nào không. Thức ăn cho em bé không cần bỏ thêm gia vị đường, muối hoặc chất béo.
Lời khuyên thầy thuốc
Ở tuổi này nếu cha mẹ thấy bất kỳ dấu hiệu nào khác thường ví dụ như: Không có bất kỳ một đáp ứng nào với những tiếng động xung quanh, thậm chí bé cũng không phát ra âm thanh nào, chưa cứng cổ, chưa nhận thức được với các người thân quen và người lạ, không thể ngồi được… thì đây có thể là dấu hiệu những vấn đề liên quan đến thính giác, chậm phát triển trí não.... Cha mẹ cần sớm đưa bé đến gặp bác sĩ.
Tham khảo thêm thông tin bài viết: Video - Gợi ý 10 trò chơi tốt cho trẻ từ 4 đến 6 tháng tuổi.
Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!
Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.
Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.
Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?
Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.
Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.
Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.