Khi một tình trạng nhiễm trùng nghiêm trọng bắt đầu ảnh hưởng đến cơ thể và số lượng tế bào T giảm đến một mức nhất định, thì người bệnh sẽ được chẩn đoán là mắc hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS)
Bệnh nhiễm trùng cơ hội là gì?
Những người nhiễm HIV nên tìm hiểu về các bệnh nhiễm trùng cơ hội. Những bệnh nhiễm trùng này được gọi là nhiễm trùng cơ hội vì chúng sẽ lợi dụng hệ miễn dịch yếu do virus HIV gây ra để phát triển.
Các bệnh nhiễm trùng có thể sẽ xảy ra thường xuyên hơn, gây ra những vấn đề về sức khỏe nghiêm trọng hơn ở người bệnh HIV sẽ được coi là những bệnh nhiễm trùng cơ hội. Dự phòng nhiễm trùng cơ hội bao gồm việc sử dụng phối hợp nhiều loại thuốc và nhiều phương pháp điều trị khác nhau.
Có hai loại nhiễm trùng cơ hội: các bệnh nhiễm trùng cơ hội hệ thống ảnh hưởng lên toàn bộ cơ thể và các bệnh nhiễm trùng cơ hội khu trú, thường có xu hướng chỉ ảnh hưởng đến một phần của cơ thể.
Biết số lượng tế bào CD4 của bạn
Số lượng tế bào T hay còn gọi là tế bào CD4 sẽ xác định được nguy cơ của một số bệnh nhiễm trùng cơ hội của bạn. Số lượng tế bào CD4 càng thấp, nguy cơ mắc phải các bệnh nhiễm trùng cơ hội càng cao.
Theo website chính thức về HIV của Bộ Y tế và Dịch vụ nhân sinh Hoa Kỳ (tại AIDS.gov), lượng tế bào CD4 bình thường và khỏe mạnh rơi vào khoảng 500-1000 tế bào/mm3 máu. Nếu lượng thế bào CD4 rơi xuống còn 350 tế bào/mm3 máu, hãy hỏi bác sỹ về kế hoạch điều trị để tăng lượng tế bào CD4 lên. Bạn sẽ được chẩn đoán bước vào giai đoạn AIDS nếu tế bào CD4 giảm xuống còn 200 tế bào/mm3 máu hoặc thấp hơn.
Nấm miệng (Nấm candidia)
Bệnh nấm miệng là một bệnh nhiễm trùng cơ hội tương đối phổ biến, thường gặp ở người nhiễm HIV với số lượng tế bào CD4 giảm xuống trong khoảng từ 200-500 tế bào/mm3 máu.
Triệu chứng phổ biến nhất của nhiễm nấm miệng là xuất hiện các đốm trắng hoặc các mảng trắng trên lưỡi hoặc họng. Nấm miệng có thể được điều trị bằng các loại thuốc chống nấm kê đơn. Vệ sinh răng miệng sạch sẽ và sử dụng nước súc miệng có chứa chlorhexidin có thể sẽ giúp dự phòng tình trạng nhiễm trùng này.
Bệnh viêm phổi do nhiễm Pneumocystis
Bệnh viêm phổi do nhiễm Pneumocystis là một trong số những bệnh nhiễm trùng cơ hội nghiêm trọng nhất ở người nhiễm HIV. Theo trang web AIDS.gov, viêm phổi do nhiễm Pneumocystis là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong ở người nhiễm HIV. Nhưng tin tốt là tình trạng nhiễm trùng này có thể được điều trị bằng kháng sinh.
Triệu chứng của bệnh bao gồm ho, sốt và khó thở. Điều trị nên được bắt đầu sớm để người bệnh có khả năng hồi phục tốt nhất. Các loại thuốc dự phòng cũng có thể được kê cho những người bệnh có nguy cơ cao mắc viêm phổi do nhiễm Pneumocystis.
Nhiễm nấm Cryptococcus
Nấm Cryptococcus là một loại nấm thường tìm thấy trong đất. Nếu hít phải loại nấm này, thì cơ thể sẽ bị nhiễm bệnh. Đây là một bệnh nhiễm trùng cơ hội đôi khi được coi là chỉ ảnh hưởng đến phổi, nhưng bệnh cũng có thể lan sáng các phần khác của cơ thể.
Nếu não bị nhiễm nấm, tình trạng này sẽ được gọi là viêm màng não do Cryptococcus. Người nhiễm HIV có số lượng tế bào CD4 nằm trong khoảng 100-50 tế bào/mm3 máu là những người đặc biệt nhạy cảm và dễ nhiễm nấm Cryptococcus. Những người có số lượng tế bào CD4 thấp sẽ phải đối mặt với nguy cơ rất cao tình trạng nhiễm nấm sẽ lan rộng.
Nhiễm Mycobacteria không điển hình (MAC)
Với những người nhiễm HIV và có tế bào CD4 dưới 50 tế bào/mm3 máu, thì nhiễm mycobacteria không điển hình là mối nguy lớn nhất đối với sức khỏe. Mycobacteria không điển hình là một loại vi khuẩn được tìm thấy ở nhiều nơi khác nhau trong môi trường. Nhiễm Mycobacteria không điển hình thường sẽ ảnh hưởng đến ruột và phổi. Nhưng trong những trường hợp nghiêm trọng, tình trạng này cũng có thể ảnh hưởng đến máu và các phần khác của cơ thể. Vì Mycobacteria không điển hình là một tình trạng có thể gây tử vong, nên người nhiễm HIV có nguy cơ mắc phải nhiễm trùng cơ hội này có thể sử dụng một số loại thuốc đặc biệt để dự phòng nhiễm trùng.
Dự phòng
CDC đã đưa ra danh sách hơn 20 bệnh nhiễm trùng cơ hội được dùng để xác định AIDS (AIDS – defining). Điều này có nghĩa là, một người có thể được chẩn đoán bị AIDS nếu người đó nhiễm HIV và mắc một trong số 20 bệnh nhiễm trùng cơ hội có mặt trong danh sách của CDC.
Nếu bạn nhiễm HIV, bạn nên biết rõ nguy cơ đi kèm với mỗi tình trạng nhiễm trùng cơ hội. Thường xuyên kiểm tra tế bào CD4 là một điều rất quan trọng. Nếu số lượng tế bào của bạn thấm, bác sỹ có thể sẽ kê đơn thuốc để bạn uống trước khi những bệnh nhiễm trùng cơ hội thực sự ảnh hưởng đến bạn.
Quả lựu giàu chất xơ, vitamin và khoáng chất có thể giúp tăng cường sức khỏe một cách đáng ngạc nhiên. Tìm hiểu những tác dụng của việc ăn một quả lựu mỗi ngày.
Tình trạng dương vật bị teo nhỏ một chút khi bạn già đi do sự suy giảm sản xuất testosterone không hiếm gặp, nhưng có những nguyên nhân khác có thể xảy ra bao gồm béo phì, phẫu thuật tuyến tiền liệt, điều trị ung thư tuyến tiền liệt và các tình trạng như bệnh Peyronie. Mặc dù bạn không phải lúc nào cũng tránh được tình trạng teo dương vật nhưng có những điều bạn có thể làm để ngăn ngừa hoặc điều trị một số nguyên nhân nhất định.
Với trẻ trên 5 tuổi, việc bổ sung vi chất vẫn vô cùng cần thiết, bởi đây là độ tuổi vàng để phát triển thể chất, trí tuệ và hình thành nền tảng sức khỏe lâu dài.
Botox (onabotulinumtoxinA) bắt đầu có hiệu lực trong vòng hai đến năm ngày sau khi bạn tiêm. Tuy nhiên, có thể mất đến vài tuần để bạn thấy được kết quả đầy đủ và mốc thời gian cho mỗi cá nhân khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.
Cá mè từ lâu đã được biết đến như một loại thực phẩm quen thuộc của người Việt Nam. Không chỉ là nguyên liệu cho những món ăn dân dã, đậm đà, cá mè còn chứa nhiều lợi ích sức khỏe cho mọi lứa tuổi.
Trong bối cảnh các bệnh tim mạch ngày càng phổ biến và trẻ hóa, việc duy trì một lối sống lành mạnh, đặc biệt là chế độ ăn uống, đóng vai trò then chốt trong việc phòng ngừa cũng như cải thiện chất lượng sống cho người bệnh tim.
Bạn đã bao giờ tự hỏi: Có chế độ ăn uống nào có thể giúp phòng ngừa bệnh tật không? Các nhà khoa học đã phát hiện một chế độ ăn uống đơn giản nhưng mang lại hiệu quả bất ngờ giúp giảm nguy cơ ung thư, đái tháo đường và bệnh tim.
Mất thính lực được phân loại thành ba loại: dẫn truyền, thần kinh cảm giác và hỗn hợp (khi mất thính lực dẫn truyền và thần kinh cảm giác xảy ra đồng thời). Mất thính lực dẫn truyền liên quan đến vấn đề ở tai ngoài hoặc tai giữa, trong khi mất thính lực thần kinh cảm giác là do tổn thương ở tai trong.