Nấm phổi tuy ít gặp hơn nhiễm khuẩn hoặc nhiễm virut phổi nhưng cũng là một vấn đề đáng quan tâm trong các bệnh phổi do viêm nhiễm nói chung. Tỷ lệ bệnh nhân nhiễm nấm phổi tăng vọt trong thời gian gần đây có nguyên nhân do tăng nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị nhiễm nấm. Đó là những người bị suy giảm miễn dịch trong các bệnh ung thư máu, tủy xương, u lympho và hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (HIV/AIDS). Đối tượng suy giảm miễn dịch cũng bao gồm những người đang phải dùng các thuốc ức chế miễn dịch như người sau khi được ghép tạng, bệnh nhân bị bệnh khớp mạn tính, bệnh nhân bị các bệnh tự miễn, dị ứng, bệnh nhân bị các bệnh hệ thống như bệnh Lupus ban đỏ, thậm chí những bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế quản... lạm dụng thuốc corticoid. Một đối tượng nữa cũng rất dễ bị nấm phổi đó là những bệnh nhân lao phổi, nhất là lao thể hang. Bên cạnh đó, các yếu tố môi trường như tốc độ đô thị hóa nhanh, thay đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, các thảm họa tự nhiên như sóng thần, bão, lốc xoáy... cũng góp phần vào việc tăng tỷ lệ bệnh nhân nhiễm nấm trong đó có nấm phổi.
Nhìn chung, có thể chia ra hai loại nhiễm nấm phổi. Loại nhiễm nấm cơ hội, xảy ra rải rác ở các cá thể - chủ yếu là ở những người có tình trạng suy giảm miễn dịch - không có liên quan đến yếu tố địa lý, môi trường mà điển hình trong số này là nhiễm nấm loại aspergillus và candida. Loại nhiễm thứ hai là loại nhiễm nấm có tính chất dịch tễ, liên quan chặt chẽ đến yếu tố địa lý, môi trường, ví dụ như khu vực Bắc Mỹ chủ yếu gặp các loại nấm phổi như Mycoses, Hystoplasmosis, Blastomycosis, Coccidioidomycosis và những loại nấm này có thể gặp ở nhiều bệnh nhân trong cùng một khu vực.
Nấm phổi chủ yếu lây nhiễm qua đường không khí.
Nấm lây nhiễm chủ yếu qua con đường không khí. Người hít phải những bào tử nấm nhỏ bay lơ lửng trong không khí, vào phổi, nếu có điều kiện thuận lợi (vật chủ bị suy giảm miễn dịch) sẽ phát triển và gây bệnh. Biểu hiện của nhiễm nấm phổi thường không điển hình và dễ nhầm lẫn với các viêm nhiễm khác ở phổi như viêm phổi do vi khuẩn, lao phổi... Khởi đầu bệnh nhân thấy mệt mỏi, ăn uống kém, ho nhiều, sốt nhẹ, tức ngực. Nặng hơn có thể có ho khạc đờm lẫn máu, đau ngực, khó thở. Ho ra máu là một triệu chứng rất hay gặp kể cả ho ra máu kiểu “sét đánh” và triệu chứng này cũng là nguyên nhân khiến bệnh nhân vào viện khám cũng như hay gây nhầm lẫn với ho ra máu do lao phổi. Chụp Xquang phổi chỉ cho hình ảnh như những viêm nhiễm thông thường mà ít đặc hiệu cho nhiễm nấm phổi. Trong một số trường hợp, phim Xquang phổi cho hình ảnh gợi ý một “u nấm” với hình vỏ dày trong có “nhân” tròn và khi đó, chẩn đoán sẽ được khẳng định thêm bằng phim chụp cắt lớp vi tính ngực. Chẩn đoán chỉ được đặt ra khi điều trị viêm phổi bằng những kháng sinh thông thường, thậm chí kháng sinh phổ rộng mà tiến triển không đáng kể. Lấy đờm soi tìm có thể thấy những sợi nấm và trong một số trường hợp, những vi sợi nấm chỉ được phát hiện dưới kính hiển vi điện tử. Luôn nghi ngờ một nhiễm nấm phổi nếu có biểu hiện viêm phổi ở những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ như đã mô tả ở trên.
Điều trị nấm phổi bằng các thuốc như amphotericin B. Đây là một loại thuốc có hiệu quả trong điều trị nhiều loại nấm tuy vẫn còn một số tác dụng phụ. Ngoài amphotericin B, một số loại thuốc khác cũng đang được sử dụng để điều trị nấm phổi như intraconazol, voriconazol...Phẫu thuật lấy bỏ hang và u nấm, cắt thùy phổi, cắt phổi nhiễm nấm nặng thường được chỉ định cho một số bệnh nấm phổi cụ thể như nấm phổi đáp ứng kém hoặc không đáp ứng với điều trị nội khoa, nấm phổi có biến chứng ho ra máu dai dẳng, ho ra máu sét đánh...
Thực sự là một công việc khó khăn bởi do có tới 75.000 loại nấm có thể gây bệnh cho con người và chúng có thể có mặt ở khắp nơi như không khí, nước, bụi bẩn... và thật khó tránh khỏi hít phải những phần tử vô cùng nhỏ đang... bay lượn trong không khí. Tuy vậy, cũng có một số biện pháp dự phòng để hạn chế việc nhiễm nấm phổi như chủ động phòng ngừa ở những đối tượng có nguy cơ cao; nâng cao nhận thức cho bệnh nhân và thầy thuốc cảnh giác trước những trường hợp viêm phổi - có thể do nấm; nhanh chóng tìm cách phát hiện và điều trị kịp thời bệnh nhân bị nhiễm nấm phổi để tránh lây lan ra cộng đồng. Cuối cùng, cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu thêm về cơ chế bệnh sinh của nhiễm nấm nói chung và nấm phổi nói riêng, từ đó có thể sản xuất những loại thuốc chống nấm mới có hiệu quả cũng như tìm được loại vắc-xin chống nấm để sử dụng phòng ngừa chủ động cho những đối tượng có nguy cơ cao.
Dù là trà đen, trà xanh, trà trắng hay trà ô long, trà nóng hay trà đá đều có nguồn gốc từ cây trà, Camellia sinensis. Nhưng trà thảo mộc thì khác. Trà thảo mộc bắt nguồn từ việc ngâm nhiều loại hoa, lá hoặc gia vị trong nước nóng. Hầu hết các loại trà này đều không có caffeine. Bạn có thể bắt đầu bằng những túi trà làm sẵn hoặc ngâm các nguyên liệu rời và sau đó lọc bỏ bã.
Nhiều người thực hiện thải độc cơ thể theo hướng dẫn truyền miệng và trên các nền tảng xã hội... và hiện nay đang dấy lên trào lưu thải độc bằng nước cốt chanh. Vậy sự thật về phương pháp thải độc này như thế nào?
Dầu dừa là một chất dưỡng ẩm tự nhiên. Nhiều người bị chàm nhận thấy dầu dừa có tác dụng làm dịu da và giảm các triệu chứng như khô và ngứa.
Chất béo thường bị mang tiếng xấu mỗi khi nói về chế độ dinh dưỡng vì cho rằng đó là nguyên nhân gây bệnh tim mạch, tiểu đường hay béo phì. Quan niệm cắt bỏ hoàn toàn chất béo khỏi bữa ăn đã từng phổ biến trong một số khuyến nghị dinh dưỡng. Thực tế, không phải tất cả các chất béo đều có hại.
Mật ong với nghệ có thể được dùng cùng nhau trong chế độ ăn hằng ngày và thực phẩm bổ sung, vậy tác dụng của chúng có mạnh hơn khi kết hợp?
Du lịch là dịp để khám phá thiên nhiên, trải nghiệm văn hóa và tận hưởng những khoảnh khắc thư giãn. Tuy nhiên, bên cạnh những điều thú vị, các chuyến đi đôi khi cũng tiềm ẩn những rủi ro nhỏ nhưng phiền toái, chẳng hạn như những vết thương do côn trùng cắn
Sữa là nguồn dinh dưỡng quan trọng nên có trong chế độ ăn hằng ngày, trong đó sữa nguyên chất được đánh giá là nguồn cung cấp protein tốt. Tìm hiểu về dinh dưỡng, lợi ích và rủi ro khi tiêu thụ sữa nguyên chất.
Một số ứng dụng có thể cho bạn biết bạn dành bao nhiêu thời gian cho điện thoại và bạn dành bao nhiêu thời gian cho từng ứng dụng. Ngay cả khi bạn không nghĩ rằng mình sử dụng điện thoại quá nhiều, việc nhìn thấy những con số thống kê tần suất sử dụng có thể khiến bạn muốn đặt điện thoại xuống.