Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Xử trí khi trẻ biếng ăn và kén ăn

Trẻ được coi là biếng ăn khi trẻ ăn không đủ khẩu phần ăn theo nhu cầu, dẫn đến trẻ có biểu hiện chậm tăng trưởng, thiếu một số chất.

Nguyên nhân khiến trẻ biếng ăn

Thực tế có khoảng 25% đến 35% trẻ ở lứa tuổi chập chững biết đi và lứa tuổi mẫu giáo được cha mẹ cho là kén ăn hoặc khảnh ăn. Tuy nhiên, đa số những trẻ này đều có cảm giác ngon miệng phù hợp với lứa tuổi và đều phát triển bình thường. Vì vậy cần giúp gia đình và người chăm sóc trẻ thực hành cho trẻ ăn hiệu quả.

Dấu hiệu nhận biết sớm trẻ biếng ăn và kén ăn: Trẻ không chịu ăn hết khẩu phần hoặc bữa ăn bị kéo dài (hơn 1 giờ); Trẻ bú ít, ăn ít hơn bình thường; Trẻ ngậm thức ăn trong miệng lâu, không chịu nuốt; Trẻ không ăn một số loại thức ăn như thịt, cá, trứng, sữa, rau, quả; Trẻ từ chối không chịu ăn, chạy trốn khi thấy thức ăn; Trẻ nhìn thấy thức ăn là có phản ứng buồn nôn.

Có nhiều nguyên nhân khiến trẻ biếng ăn. Trẻ sợ vì những đau đớn, cảm giác khó chịu trẻ đã trải qua trước đó như hóc, khó thở, đặt ống thông mũi - dạ dày; Trẻ sợ vì phải ăn bổ sung quá sớm khi trẻ phát triển chưa đầy đủ phản xạ và khả năng phối hợp để đáp ứng với chế độ ăn bổ sung; Do trẻ quá tập trung vào các hoạt động khác và từ chối khi được cho ăn; Do trẻ phản ứng khi bị ép ăn, trẻ có thể sẽ phản kháng lại vì chúng có nhu cầu tự chủ; Do trẻ thay đổi tâm sinh lý trong quá trình phát triển và điều đó cũng dẫn đến biểu hiện biếng ăn hay kén ăn.

Ngoài ra trẻ kén ăn còn do nguyên nhân từ phía gia đình, do gia đình chưa có đầy đủ kiến thức về mức độ tăng trưởng và nhu cầu dinh dưỡng khác nhau của trẻ theo từng lứa tuổi, vì vậy không nhận định được chính xác sự phát triển bình thường của trẻ hoặc đặt ra kỳ vọng quá mức, muốn trẻ phải bụ bẫm và cao hơn so với bình thường, bắt trẻ ăn nhiều hơn nhu cầu thật của trẻ làm trẻ sợ ăn; Không hiểu được giảm cảm giác thèm ăn sinh lý xuất hiện ở giai đoạn trẻ từ 1 đến 5 tuổi; Cho trẻ uống quá nhiều các loại nước uống như sữa, nước trái cây hoặc ăn quá nhiều bánh, kẹo sẽ làm trẻ giảm cảm giác thèm ăn và không ăn được các thức ăn giàu năng lượng và dinh dưỡng; Cho trẻ ăn vặt giữa các bữa chính và các bữa phụ cũng có thể ảnh hưởng đến khẩu vị của trẻ. Ép buộc trẻ ăn, không cho trẻ ăn theo đáp ứng và tín hiệu của trẻ sẽ làm trẻ chán ăn, sợ ăn.

Dự phòng biếng ăn và kén ăn ở trẻ nhỏ

Về dinh dưỡng, cho trẻ ăn bổ sung đúng thời điểm (tròn 6 tháng), không cho trẻ ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn; Cho trẻ ăn đủ số lượng và số bữa phù hợp với tuổi của trẻ. Không cho trẻ ăn quá nhiều trong một bữa hoặc quá nhiều lần trong ngày (khoảng cách giữa các bữa quá gần) làm trẻ quá no, khó chịu và sợ ăn; Cho trẻ ăn đa dạng nhiều loại thức ăn để phòng tránh thừa hoặc thiếu các chất dinh dưỡng; Cố gắng cho trẻ ăn đúng bữa.

Giúp trẻ vui vẻ, thoải mái khi ăn; Kiên nhẫn, động viên, khuyến khích trẻ ăn; Không ép buộc trẻ ăn; Không để trẻ mất tập trung khi ăn. Thay đổi thức ăn cho trẻ hàng ngày, cho trẻ ăn nhiều món khác nhau. Cho trẻ ăn thức ăn trẻ thích; Cho trẻ ăn cân đối các dạng thức ăn khác nhau, không nên cho trẻ ăn quá nhiều tinh bột hoặc quá nhiều thịt, cá. Thay đổi cách chế biến để trẻ ăn ngon miệng;

Trang trí, chuẩn bị món ăn đẹp, nhiều màu sắc, hương vị hấp dẫn; Chuẩn bị một số thức ăn nhỏ, mềm, bắt mắt để trẻ có thể tự cầm và tự ăn. Cho trẻ ăn nhiều bữa trong ngày và ăn xen kẽ các bữa phụ; Nếu trẻ từ chối ăn một loại thức ăn mới, không nên ép trẻ mà sẽ thử lại vào thời điểm khác; Không cho trẻ ăn quà vặt như bánh, kẹo, nước ngọt... trước bữa ăn vì sẽ làm trẻ mất cảm giác đói, cảm giác thèm ăn làm cho trẻ không chịu ăn các thức ăn giàu dinh dưỡng khác;

Cho trẻ ăn khi trẻ thấy đói. Khi trẻ từ chối ăn, không nên ép trẻ ăn mà đợi trẻ thấy đói, muốn ăn và đòi ăn thì cho trẻ ăn; Thời gian ăn của trẻ nên giới hạn trong khoảng 20- 30 phút. Sau bữa ăn không để trẻ tiếp xúc với thức ăn, như vậy trẻ sẽ không bị chán ăn trong bữa tiếp theo; Cho trẻ vận động, chơi hoặc tắm trước khi ăn để trẻ có cảm giác đói; Cho trẻ ăn cùng bạn, cùng gia đình. Cha mẹ ăn thức ăn của trẻ hoặc cho trẻ ăn thức ăn của mình nếu phù hợp để động viên trẻ ăn. Khen thức ăn ngon, khen ngợi trẻ, khuyến khích trẻ để trẻ tự tin và thích thú khi ăn;

Nên cho trẻ tự xúc ăn, tự cầm thức ăn để ăn và kết hợp hỗ trợ trẻ trong khi ăn; Không nên dùng các thuốc kích thích ăn ngon cho các trường hợp trẻ biếng ăn, có thể bổ sung vitamin và chất khoáng nếu chất lượng bữa ăn của trẻ chưa đảm bảo; Khi trẻ tăng trưởng tốt, không cần cho trẻ sử dụng các sản phẩm bổ sung dinh dưỡng vì các sản phẩm này không thể thay thế cho các thực hành ăn, uống hợp lý.

Đưa trẻ đến cơ sở y tế khám nếu trẻ có các biểu hiện sau: Trẻ không tăng cân trong hai tháng liên tiếp; Trẻ biếng ăn trong một thời gian dài; Trẻ chậm chạp, không đùa nghịch; Trẻ bị ốm, sốt, ho, tiêu chảy, đau trong miệng, họng…

(Theo Tài liệu Nuôi dưỡng trẻ nhỏ, Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, Bộ Y tế).

Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Những lưu ý khi cho trẻ ăn bổ sung.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống
Bình luận
Tin mới
  • 18/08/2025

    Sức khỏe tinh thần người cao tuổi tại Việt Nam: thực trạng, thách thức và giải pháp hướng tới một xã hội già hóa khỏe mạnh

    Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.

  • 18/08/2025

    Tiêu chảy mùa mưa lũ: Nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng tránh

    Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.

  • 17/08/2025

    8 nguyên nhân gây ra tình trạng răng khấp khểnh

    Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.

  • 16/08/2025

    Tác động của mạng xã hội đến sức khỏe tinh thần giới trẻ

    Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.

  • 16/08/2025

    Tầm quan trọng của việc tiêm chủng cho trẻ em và người lớn

    Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.

  • 15/08/2025

    Ăn bao nhiêu rau quả mỗi ngày là đủ?

    Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?

  • 15/08/2025

    Người cao tuổi vẫn có thể bị suy dinh dưỡng?

    Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.

  • 15/08/2025

    Báo cáo trường hợp: Sốc nhiễm trùng kèm viêm da, cân cơ hoại tử do nhiễm Vibrio vulnificus qua vết thương ở da

    Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.

Xem thêm