Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Viêm tai là gì? Triệu chứng, nguyên nhân, chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa

Viêm tai là tình trạng rất phổ biến, ảnh hưởng đến 5 trong số 6 trẻ em tại Mỹ khi được 3 tuổi. Hầu hết các trường hợp viêm tai xảy ra ở tai giữa, đó là khoảng trống phía sau màng nhĩ, nơi chứa các xương rung của tai.

Ít phổ biến hơn là viêm tai xảy ra trong ống tai. Trường hợp nhiễm trùng này được gọi là viêm tai ngoài cấp tính và thường xảy ra sau khi bơi lội. Bất kỳ loại nước nào khi lọt vào tai đều có thể chứa vi khuẩn và cuối cùng dẫn đến nhiễm trùng. Các trường hợp hiếm gặp hơn là nhiễm trùng xảy ra ở các bộ phận phía bên trong của tai, chịu trách nhiệm giữ thăng bằng và thính giác, đôi khi được gọi là viêm mê nhĩ. Những bệnh nhiễm trùng này có thể gây chóng mặt (cảm giác quay cuồng) và các vấn đề về việc giữ thăng bằng.

Các dấu hiệu và triệu chứng của viêm tai

Viêm tai có thể do vi khuẩn hoặc vi rút gây ra và xảy ra khi chất lỏng tích tụ trong tai giữa, nơi thường chứa đầy không khí. Chúng thường kèm theo cảm giác đau nhức do vùng tai giữa bị viêm. Đau tai có thể ảnh hưởng đến một hoặc cả hai tai, nhưng hầu hết là ở một tai.

Tình trạng viêm tai được mô tả giống như sỏi thận, có thể cực kỳ đau đớn cho đến khi được chữa khỏi. Nó có thể âm ỉ, nhói hoặc nóng rát và các cơn đau sẽ kéo dài liên tục hoặc ngắt quãng.

Các triệu chứng viêm tai giữa thường xuất hiện đột ngột. Người lớn thường sẽ bị đau tai, chóng mặt và gặp khó khăn khi nghe hoặc thấy chất lỏng chảy ra từ tai. Trẻ bị viêm tai có thể gặp các triệu chứng tương tự như:

  • Khó ngủ.
  • Khó chịu và trở nên khó tính.
  • Cảm giác đau khi nuốt dẫn đến chán ăn.
  • Sốt lên tới 40 độ C.
  • Cảm giác giật mạnh ở tai
  • Chảy dịch từ tai (không phải ráy tai), có thể là dấu hiệu màng nhĩ đã vỡ

Các dấu hiệu nhiễm trùng trong ống tai có thể bao gồm tai đỏ, sưng, đau và tiết dịch.

Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ gây viêm tai

Viêm tai thường liên quan đến các bệnh khác, chẳng hạn như vi rút cảm lạnh, cúm hoặc dị ứng gây nghẹt mũi và sưng tấy ở mũi, cổ họng. Viêm tai phổ biến hơn vào những tháng mùa thu và mùa đông khi các bệnh này gia tăng, những người bị dị ứng có tỷ lệ nhiễm trùng tai tăng đột biến khi số lượng phấn hoa cao.

Để hiểu rõ nguyên nhân gây viêm tai, chúng ta cần biết một chút về giải phẫu của tai. Ống eustachian đi từ giữa tai đến phía sau đường mũi ở phía sau cổ họng. Khi ống bị tắc (có thể do sưng, viêm hoặc chất nhầy) do chất lỏng tích tụ trong tai và gây áp lực lên màng nhĩ. Vì vậy, không gian này chứa đầy áp lực đang giãn nở mà không có lối ra và tai của bạn sẽ giống như một quả bóng bay sắp nổ tung. Các ống cũng có thể bị tắc khi adenoids, là những mô nằm gần đầu ống eustachian ở phía sau cổ họng, bị viêm. Các adenoids bị sưng có thể dẫn đến nhiễm trùng.

Trẻ em bị viêm tai giữa thường xuyên hơn người lớn, trẻ nhỏ từ 6 tháng đến 2 tuổi có nguy cơ cao nhất. Viêm tai giữa chỉ xếp sau cảm lạnh vì đây là căn bệnh phổ biến nhất mà trẻ em gặp phải.

Nguy cơ viêm tai giảm dần khi trẻ lớn lên. Trẻ nhỏ có nguy cơ cao hơn do ống eustachian có nhiều khả năng bị tắc. Các ống này thường hẹp hơn và nằm ngang hơn so với tai của người lớn và vòm họng của trẻ thường lớn hơn tai của người lớn. Hai yếu tố đó khiến chất lỏng dễ bị mắc kẹt hơn. Nguy cơ nhiễm trùng giảm xuống khi cấu trúc khuôn mặt của trẻ thay đổi và các ống trở nên thẳng đứng hơn một chút, thường vào khoảng 7 hoặc 8 tuổi.

Trẻ em cũng có nguy cơ cao hơn vì chúng có xu hướng bị cảm lạnh và nhiễm trùng đường hô hấp nhiều hơn khi hệ thống miễn dịch đang hoàn thiện và dẫn đến viêm tai. Trẻ em thường truyền bệnh cảm lạnh và nhiễm trùng này cho nhau ở trường học hoặc nơi giữ trẻ. Việc lây truyền vi-rút giữa trẻ em là rất phổ biến, vì vậy những đứa trẻ ở nhà trẻ hoặc những nhà có trẻ nhỏ sẽ có tỷ lệ viêm tai cao hơn so với những đứa trẻ khác.

Trẻ sơ sinh có nguy cơ cao hơn nếu dùng bình uống khi nằm, thức ăn sẽ tồn đọng ở phía sau cổ họng và phần trên của cổ họng của trẻ là phía sau mũi, điều này có thể dẫn đến viêm tai nếu chất lỏng truyền đến tai.  

Trong khi trẻ em có nguy cơ bị viêm tai cao hơn thì người lớn cũng không tránh khỏi tình trạng này. Chất lượng không khí kém dù là do ô nhiễm hay khói thuốc lá trong không khí, có thể khiến mọi người ở mọi lứa tuổi có nguy cơ bị nhiễm trùng cao hơn. Hút thuốc và khói thuốc thụ động có tác động rất lớn đối với người trưởng thành.

Một số yếu tố nhất định có thể khiến khả năng nhiễm trùng tăng cao. Yếu tố di truyền có thể khiến viêm tai có xu hướng di truyền trong gia đình. Một số bệnh mạn tính cũng có thể dẫn đến viêm tai gia tăng, đặc biệt là các tình trạng tác động tiêu cực đến hệ thống miễn dịch.

Viêm tai được chẩn đoán như thế nào?

Người lớn bị đau tai hoặc chảy dịch từ tai nên đến gặp bác sĩ càng sớm càng tốt. Trẻ em nên đến bác sĩ nếu các triệu chứng kéo dài hơn 24 giờ hoặc nếu trẻ dưới 6 tháng tuổi xuất hiện các cơn đau dữ dội và kèm theo chảy mủ. 

Bác sĩ hoặc y tá sẽ kiểm tra tai bằng kính soi tai để xem màng nhĩ có sưng hay đỏ hay không. Họ cũng có thể thổi khí vào màng nhĩ bằng một dụng cụ gọi là ống soi tai bằng khí nén. Điều này giúp họ xem liệu màng nhĩ có di chuyển hay không. Nếu không, có thể có chất lỏng trong tai. Đo nhĩ lượng, kiểm tra chất lỏng trong tai bằng âm thanh và áp suất không khí, cũng có thể được sử dụng.

Tiên lượng tình trạng viêm tai

Mặc dù đôi khi rất đau đớn nhưng viêm tai thường không phải là nguyên nhân đáng lo ngại nhưng cũng có thể xảy ra các biến chứng.

Thời gian viêm tai

Một số bệnh viêmg tai sẽ cần điều trị bằng kháng sinh và có thể mất tới 10 ngày. Trong hầu hết các trường hợp, các cơn đau sẽ giảm dần mà không cần điều trị. Đối với những bệnh nhân trên 2 tuổi, viêm tai có thể được theo dõi tới 72 giờ vì phần lớn chúng sẽ tự khỏi nếu có thể kiểm soát tốt cơn đau và để mọi việc diễn ra tự nhiên.

Các lựa chọn điều trị và dùng thuốc 

Nếu cơn đau không biến mất hoặc kèm theo các triệu chứng nghiêm trọng khác, bạn nên đến gặp bác sỹ chuyên tai mũi họng. Nếu trẻ không thể hoạt động như bình thường hoặc có dấu hiệu cứng cổ, hãy gọi bác sĩ ngay lập tức.  Viêm tai không lây nhiễm và khả năng bị tổn thương vĩnh viễn thấp. Bác sĩ có thể yêu cầu chờ đợi để xem liệu các triệu chứng có biến mất mà không cần điều trị hay không.

Tùy chọn sử dụng thuốc

viêm tai có thể gây đau nên trọng tâm của việc điều trị là kiểm soát cơn đau. Điều trị có thể bao gồm thuốc giảm đau không kê đơn, chẳng hạn như ibuprofen (Advil) và acetaminophen (Tylenol), thường bắt đầu có hiệu lực trong vòng một hoặc hai giờ.

Nếu tình trạng bệnh không giảm hoặc nhiễm trùng nặng, bác sĩ có thể kê đơn thuốc kháng sinh như amoxicillin (Amoxil) trong 7 đến 10 ngày. Thuốc kháng sinh đường uống thường được kê đơn cho các bệnh viêm ở tai giữa, trong khi các bệnh nhiễm trùng liên quan đến ống tai có thể sẽ phải dùng thuốc nhỏ tai kháng sinh. Nếu bạn bị sốt hoặc đau sau hai ngày dùng kháng sinh, hãy báo cho bác sĩ.

Điều quan trọng là phải hoàn thành toàn bộ quá trình điều trị bằng kháng sinh được kê đơn, ngay cả khi các triệu chứng đã hết, để đảm bảo nhiễm trùng không quay trở lại. Bạn có thể tái khám trong vòng một tháng để chắc chắn rằng tình trạng nhiễm trùng đã được điều trị thành công.

Một số người tin tưởng sử dụng các biện pháp điều trị viêm tai tại nhà, chẳng hạn như chườm ấm lên tai bị nhiễm trùng khi đi ngủ hoặc khi cơn đau. Một trong số những cách này có thể giúp giảm đau và trẻ lớn hơn hoặc người lớn có thể thử. Nhưng chúng có thể gây rủi ro cho trẻ dưới 2 tuổi và có nguy cơ gặp biến chứng cao hơn.

Phòng ngừa viêm tai

Trẻ em và người lớn có thể ngăn ngừa nhiễm trùng tai bằng cách:

  • Tránh thuốc lá thụ động.
  • Kiểm soát dị ứng
  • Cho bé bú đồng thời cầm bình nghiêng một góc 45 độ để chất lỏng không chảy vào ống eustachian.
  • Luôn tiêm đầy đủ vắc xin cho trẻ
  • Hạn chế nguy cơ cảm lạnh
  • Cho trẻ bú mẹ đến 1 tuổi vì sữa mẹ có chứa kháng thể làm giảm nguy cơ nhiễm trùng
  • Đưa trẻ đến bác sĩ nếu trẻ có biểu hiện thở bằng miệng hoặc ngáy, đó có thể là dấu hiệu của vòm họng lớn

Biến chứng của viêm tai

Phần lớn, không cần phải lo lắng về các biến chứng do nhiễm trùng tai. Nhưng đôi khi chúng vẫn xảy ra.

Những trẻ vẫn còn dịch trong tai giữa sau ba tháng có thể cần được thực hiện một thủ thuật gọi là cắt màng nhĩ và đặt ống. Đối với thủ thuật này, bác sĩ sẽ đưa ống qua màng nhĩ nhằm cân bằng áp suất giữa phần giữa và phần ngoài của tai. Những ống này tự rơi ra, thường sau sáu tháng đến một năm.

Rất hiếm khi viêm tai có thể dẫn đến viêm màng não hoặc viêm xương chũm. Các vấn đề về thính giác cũng có thể xảy ra do nhiễm trùng tái đi tái lại thường xuyên hoặc tồn tại dai dẳng mà không khỏi hẳn.

Nếu trẻ nhỏ bị mất thính lực, thậm chí là tạm thời, chúng có thể gặp khó khăn trong việc phát triển các kỹ năng nói và xã hội.

 Những ai có nguy cơ mắc viêm tai

Hơn 80% trẻ em sẽ bị nhiễm trùng tai ít nhất một lần khi chúng lên 3 tuổi. Khoảng 25% trẻ em sẽ bị viêm tai nhiều lần.

Các tình trạng liên quan đến viêm tai

Mặc dù viêm tai là nguyên nhân phổ biến nhất gây đau tai nhưng chúng không phải là nguyên nhân duy nhất. Các nguyên nhân phổ biến khác gây đau tai bao gồm:

  • Viêm họng liên cầu khuẩn.
  • Viêm xoang
  • Bệnh chàm ở ống tai.
  • Thay đổi áp suất không khí, chẳng hạn như khi đi máy bay
  • Tích tụ ráy tai
  • Có vật lạ trong tai
  • Sử dụng tăm bông ngoáy tai
  • Dầu gội hoặc nước tích tụ trong tai

Các nguyên nhân gây đau tai ít phổ biến hơn bao gồm:

  • Hội chứng khớp thái dương hàm (TMJ).
  • Màng nhĩ thủng
  • Viêm khớp ảnh hưởng đến hàm
  • Nhiễm trùng răng
  • Răng bị ảnh hưởng
  • Niềng răng
  • Đau dây thần kinh sinh ba hoặc đau dây thần kinh mặt mạn tính

 

Bình luận
Tin mới
Xem thêm