Bệnh có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm như chảy máu dạ dày, thủng, hẹp môn vị, loét ung thư hoá... Ngoài ra, bệnh còn gây thiếu máu do giảm hấp thu vitamin B12. Nhưng bổ sung vitamin B12 như thế nào là điều cần lưu ý.
Vì sao phải dùng vitamin B12 đường tiêm?
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thiếu máu như thiếu máu do dinh dưỡng, thiếu máu do bệnh lý cơ quan tạo máu, thiếu máu do tan máu... trong đó thiếu máu dinh dưỡng (tức là thiếu các nguyên liệu cần thiết cho quá trình tạo máu như sắt, vitamin B12, acid folic, magie, kẽm, đồng, coban...) là nguyên nhân thường gặp nhất.
Trong đó, vitamin B12 là tên chung chỉ các cobalamin hoạt động trong cơ thể như cyanocobalamin, hydroxocobalamin..., chúng có nhiều trong thịt động vật như cá, trứng, gan... Ngoài ra, trong cơ thể người được tổng hợp một lượng nhỏ nhờ một số vi khuẩn ở ruột.
Vitamin B12 được hấp thu qua đường tiêu hoá hoặc qua đường tiêm, trong đó đáng chú ý là muốn hấp thu được qua đường tiêu hóa thì cần phải có một yếu tố nội của cơ thể (là một glycoprotein do tế bào niêm mạc dạ dày tiết ra) chính vì vậy ở người bị viêm loét dạ dày mạn tính dễ dẫn đến thiếu vitamin B12 . Đây là lý do vì sao bác sĩ cho bạn dùng vitamin B12 đường tiêm chứ không phải đường uống.
Các cobalamin đóng vai trò quan trọng là các coenzym đồng vận chuyển tham gia vào nhiều quá trình chuyển hóa quan trọng, trong đó đáng chú ý là quá trình chuyển hóa acid folic và tổng hợp ADN nên rất cần cho sự tổng hợp sinh hồng cầu.
Ngoài ra, cobalamin còn tham gia vào quá trình chuyển hóa lipid và hoạt động bình thường của hệ thần kinh. Vì vậy, khi thiếu vitamin B12 sẽ dẫn đến tình trạng thiếu máu hồng cầu to, viêm đa dây thần kinh, rối loạn cảm giác, rối loạn vận động khu trú ở chân.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thiếu vitamin B12 như trong bệnh Biermer, sau cắt đoạn dạ dày ruột, hội chứng kém hấp thu, xơ gan, viêm gan mạn, phụ nữ có thai hoặc sau dùng một số thuốc như neomycin, sodanton...
Vitamin B12 được chỉ định dùng trong các trường hợp thiếu máu nhất là thiếu máu hồng cầu to, viêm và đau dây thần kinh, dự phòng thiếu máu ở người bị cắt dạ dày hoặc viêm ruột mạn. Ngoài ra có thể kết hợp với các vitamin khác trong các trường hợp cơ thể suy nhược, suy dinh dưỡng, phụ nữ có thai, cho con bú. Chú ý thuốc không được dùng cho người bệnh ung thư, người mẫn cảm với thuốc.
Trị loét dạ dày bằng cách nào?
Loét dạ dày tá tràng thường do các yếu tố tấn công như tăng acid HCl, pepsin, vi khuẩn Hp, bệnh có xu hướng tăng lên ở những người dùng nhiều chất kích thích như rượu, bia...
Trước đây, bệnh được coi là khó chữa và gây ra các biến chứng nguy hiểm như chảy máu dạ dày, thủng, hẹp môn vị, loét ung thư hoá...
Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của y học, đặc biệt là tìm ra nguyên nhân gây viêm - loét dạ dày. Cùng với công nghệ dược, nhiều thuốc điều trị loét ra đời đã làm giảm tỷ lệ tái phát và các biến chứng. Trị khỏi chứng loét dạ dày là một trong những biện pháp giúp cơ thể hấp thu thức ăn, vitamin tốt hơn nhằm tránh tình trạng thiếu máu.
Nhóm kháng cholin (anticholinergic) từ lâu đã được dùng trong điều trị các loét tiến triển. Chúng có thể làm giảm co thắt dạ dày, giảm tiết acid qua tác dụng trực tiếp lên tế bào thành và gián tiếp kìm hãm sản xuất gastrin.
Nhóm thuốc kháng acid (antacid) có tác dụng tương tác với HCl tạo nên những loại muối không được hấp thu hoặc ít hấp thu do đó làm tăng pH dạ dày, hạn chế khả năng hoạt động của pepsin. Cho đến nay, có nhiều loại thuốc antacid dùng để chữa loét tiêu hoá. Thuốc có tác dụng trung hoà acid dạ dày, ít hấp thu vào máu từ đường dạ dày ruột và cũng ít tác dụng phụ.
Các thuốc cimetidin, ranitidin, nizatidin, famotidin thuộc nhóm các thuốc kháng thụ thể H2 của histamin. Thuốc có tác dụng ức chế tiết chọn lọc các thụ thể H2 ở màng đáy bên của tế bào thành. Do đó, nó không chỉ ức chế sau khi kích thích bằng histamin mà còn cả sau kích thích bằng gastrin hoặc acetylcholin.
Các thuốc ức chế bơm proton lần lượt ra đời đã đem lại hiệu quả rõ rệt trong điều trị bệnh loét. Hiện đã có 5 thế hệ thuốc thuộc nhóm ức chế bơm proton được sử dụng rộng rãi hiện nay.
Các thuốc sucralfat và bismuth dạng keo có tác dụng băng se và bảo vệ niêm mạc dạ dày. Dùng các thuốc tương tự prostaglandin được chứng minh trong lâm sàng có hiệu quả trong điều trị viêm loét tiêu hoá, chúng làm giảm bài tiết acid dạ dày và kích thích, đồng thời làm tăng sức đề kháng niêm mạc đối với tổn thương mô nên nó được xếp vào nhóm thuốc nuôi dưỡng niêm mạc dạ dày.
Trong bệnh loét dạ dày, sự có mặt của vi khuẩn HP cũng là nguyên nhân gây bệnh khá quan trọng. Do vậy, để tiêu diệt vi khuẩn này, các kháng sinh hay sử dụng là amoxicilline, nhóm imidazole, clarithromycin.
Trên đây là những nhóm thuốc cơ bản hiện nay dùng trong điều trị loét dạ dày tá tràng, tuy nhiên phải tuỳ theo từng trường hợp cụ thể về bệnh cảnh lâm sàng, đặc điểm và mức độ tổn thương, điều kiện sức khỏe cụ thể của bệnh nhân mà bác sĩ sẽ có chỉ định dùng phác đồ điều trị hợp lý.
Ngoài việc sử dụng các thuốc điều trị loét theo đơn của bác sĩ thì sự chủ động bệnh nhân trong việc tránh tiếp xúc với các yếu tố nguyên nhân như các chất kích thích, các sang chấn tâm lý, có kế hoạch làm việc và nghỉ ngơi hợp lý... là một điều kiện hết sức quan trọng đóng góp vào sự thành công của quá trình điều trị.
Viêm loét đại tràng là một căn bệnh mạn tính, nhưng bạn có thể kiểm soát được và chung sống với căn bệnh này. Bác sĩ sẽ làm việc với bạn để tìm ra phương pháp điều trị giúp kiểm soát các triệu chứng và ngăn ngừa chúng tái phát.
Vitamin K rất cần thiết cho trẻ sơ sinh, và tình trạng thiếu hụt vitamin K ở trẻ sơ sinh xảy ra phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Vậy trong giai đoạn này, nên bổ sung vitamin K dưới dạng K1 hay K2 cho trẻ? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Việc ngâm mình trong một vùng nước tự nhiên ấm áp, với tiếng chim hót xung quanh và không khí trong lành bên ngoài có thể giúp bạn cảm thấy thư giãn. Đôi khi một số người còn tin rằng tắm khoáng nóng giúp giảm cân. Vậy điều đó có đúng không? Cùng tìm hiểu câu trả lời và khám phá các lợi ích sức khỏe có thể có khi tắm khoáng nóng cùng Bác sĩ Dinh dưỡng VIAM nhé.
Vitamin D có những vai trò rất quan trọng trọng việc hấp thu canxi, tham gia vào nhiều chức năng khác như tạo xương, miễn dịch, tăng trưởng. Việc thiếu hay thừa vitamin D đều để lại những ảnh hưởng tới sức khỏe của trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ sơ sinh. Bổ sung vitamin D là điều được nhiều chuyên gia y tế khuyến cáo, tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ - trong đó vitamin D3 là dạng bổ sung được khuyến nghị tốt nhất.
Theo Tiến sĩ, bác sĩ Trương Hồng Sơn, Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam, khi trời mưa nhiều, độ ẩm tăng cao sẽ tạo môi trường thuận lợi cho các vi khuẩn sinh sôi, do đó thức ăn dễ bị ôi, thiu, mốc và sinh ra độc tố gây ngộ độc thực phẩm.
Vaccine Qdenga đang được khuyến nghị tiêm cho trẻ em trên 4 tuổi và người lớn để phòng chống sốt xuất huyết, cùng tìm hiểu về loại vaccine này qua bài viết sau đây.
Vitamin D (còn được gọi là calciferol) là một loại vitamin tan trong dầu, có mặt trong một số thực phẩm tự nhiên. Vitamin D cũng được sản xuất nội sinh khi tia cực tím (UV) từ ánh sáng mặt trời chiếu vào da và kích thích quá trình tổng hợp vitamin D.
Về định nghĩa, thừa cân là tình trạng cân nặng vượt quá cân nặng “nên có” so với chiều cao. Còn béo phì là tình trạng tích lũy mỡ ở mức vượt quá và không bình thường một cách cục bộ hay toàn thể tới mức ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ.