Bất cứ khi nào xuất hiện vết thương có đất hoặc các chất từ môi trường, bạn đều có nguy cơ mắc bệnh uốn ván. Một khi vi khuẩn xâm nhập vào vết thương, chúng có thể tạo ra chất độc ảnh hưởng đến hệ thần kinh và cơ bắp. Chất độc này có thể gây cứng cơ và đây là một tình trạng rất nguy hiểm, đặc biệt khi nó ảnh hưởng đến các cơ phục vụ cho chức năng hô hấp. Bệnh có thể dẫn tới những biến chứng nghiêm trọng, thậm chí tử vong. Uốn ván là một cấp cứu Y khoa cần điều trị tại bệnh viện. Hầu hết các trường hợp uốn ván xảy ra ở những người chưa được tiêm phòng.
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh uốn ván
Thời gian ủ bệnh là thời gian kể từ khi tiếp xúc với bệnh, thường là từ 3 đến 21 ngày. Hầu hết các trường hợp xảy ra trong vòng 14 ngày, với thời gian ủ bệnh ngắn hơn khi vết thương bị nhiễm trùng nặng hơn. Dấu hiệu đầu tiên của bệnh uốn ván là co thắt các cơ hàm, được gọi là cứng hàm.
Các triệu chứng khác bao gồm:
Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ uốn ván
Bệnh uốn ván khác với các bệnh khác có thể phòng ngừa bằng vắc xin vì bệnh này không lây từ người sang người. Vi khuẩn gây bệnh thường có trong đất, bụi, phân và xâm nhập vào cơ thể qua các vết nứt trên da. Những vết cắt hoặc vết thương thủng này có thể do các vật thể bị ô nhiễm gây ra (ví dụ, vết cắt gây ra bởi một chiếc đinh rỉ sét).
Các trường hợp uốn ván tiến triển từ những nguyên nhân sau:
Những người mắc bệnh tiểu đường hoặc có tiền sử ức chế miễn dịch và tiêm chích ma túy có thể có nguy cơ mắc bệnh uốn ván cao hơn. Bệnh tiểu đường có liên quan đến 14% tổng số ca uốn ván được báo cáo từ năm 2000 đến năm 2019. Những người tiêm chích cũng chiếm 14% các trường hợp trong cùng thời kỳ.
Uốn ván sơ sinh là một dạng bệnh xảy ra ở trẻ sơ sinh. Cuống rốn của trẻ sơ sinh, phần còn lại sau khi cắt dây rốn, có thể bị nhiễm bẩn. Hầu hết trẻ sơ sinh mắc dạng bệnh này đều tử vong.
Hình thức này rất hiếm khi xảy ra ở các nước phát triển. Bệnh uốn ván sơ sinh đặc biệt phổ biến ở các vùng nông thôn, nơi hầu hết các ca sinh nở đều diễn ra tại nhà mà không có quy trình vô trùng.
Bệnh uốn ván được chẩn đoán như thế nào?
Bệnh uốn ván được chẩn đoán dựa trên các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng. Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm không hữu ích vì vi khuẩn gây bệnh không thể phục hồi được từ vết thương của người bị uốn ván.
Tiên lượng bệnh uốn ván
Tiên lượng thường phụ thuộc vào thời gian ủ bệnh và thời gian từ khi có triệu chứng đầu tiên đến khi co thắt cơ đầu tiên. Nói chung, nếu các triệu chứng phát triển và tiến triển nhanh chóng thì tiên lượng sẽ xấu hơn. Nhưng nếu được điều trị, bệnh nhân thường sống sót sau cơn uốn ván và hồi phục.
Trong những năm gần đây, bệnh uốn ván đã gây tử vong trong khoảng 11% số trường hợp được báo cáo. Những trường hợp có khả năng gây tử vong cao nhất là những trường hợp xảy ra ở những người từ 60 tuổi trở lên và những người chưa được tiêm chủng.
Thời gian cơn uốn ván
Các triệu chứng, bao gồm co thắt, có thể kéo dài vài phút mỗi lần và kéo dài từ 3 đến 4 tuần hoặc lâu hơn. Quá trình khỏi bệnh, hồi phục hoàn toàn có thể mất vài tháng.
Các lựa chọn điều trị và dùng thuốc cho bệnh uốn ván
Điều trị tập trung vào việc kiểm soát các biến chứng cho đến khi độc tố uốn ván hết tác dụng. Người bị uốn ván sẽ được điều trị tại bệnh viện, thường là ở phòng chăm sóc đặc biệt.
Việc điều trị sẽ bao gồm thuốc kháng sinh để tiêu diệt vi khuẩn và globulin miễn dịch uốn ván để vô hiệu hóa chất độc đã được giải phóng. Bạn cũng có thể được dùng thuốc để kiểm soát co thắt cơ và điều trị hỗ trợ các chức năng quan trọng của cơ thể. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng, có thể cần phải đặt máy thở để hỗ trợ chức năng thở.
Phòng ngừa uốn ván
Tiêm vắc xin uốn ván là công cụ tốt nhất để phòng ngừa bệnh uốn ván.
Vắc xin uốn ván thường được tiêm cho trẻ em như một phần của vắc xin phòng bệnh bạch hầu, uốn ván và ho gà vô bào (DTaP). Sự bảo vệ khỏi vắc xin uốn ván không kéo dài suốt đời, đó là lý do tại sao bạn nên tiêm nhắc lại sau mỗi 10 năm. Tất cả phụ nữ mang thai nên tiêm vắc xin uốn ván trong thời kỳ mang thai (và bất kỳ lần mang thai tiếp theo nào). Điều này giúp làm giảm 94% nguy cơ nhiễm trùng uốn ván sơ sinh.
Nếu bạn chưa được tiêm phòng uốn ván khi còn nhỏ, nên đến gặp bác sĩ để tiêm vắc xin Tdap. (Giống như DTaP, Tdap bảo vệ chống uốn ván, nhưng ở người lớn).
Các bác sĩ cũng có thể sử dụng thuốc để giúp ngăn ngừa bệnh uốn ván trong trường hợp người bệnh bị thương nặng và không được bảo vệ khỏi vắc xin uốn ván. Vết thương thủng hoặc vết cắt sâu khác, vết cắn của động vật hoặc vết thương đặc biệt bẩn khiến bạn có nguy cơ nhiễm trùng uốn ván cao hơn. Tìm kiếm sự chăm sóc y tế nếu vết thương sâu và bẩn, đặc biệt nếu bạn không chắc chắn về lần tiêm chủng cuối cùng của mình.
Bác sĩ có thể cần phải làm sạch vết thương, kê đơn thuốc kháng sinh và tiêm cho bạn mũi tiêm nhắc lại vắc xin giải độc uốn ván. Nếu trước đây bạn đã được tiêm phòng, cơ thể sẽ nhanh chóng tạo ra các kháng thể cần thiết để bảo vệ bạn khỏi bệnh uốn ván. Nếu bạn có vết thương nhỏ, các bước sau sẽ giúp ngăn ngừa bệnh uốn ván:
Biến chứng của uốn ván
Các vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng có thể xảy ra do bệnh uốn ván bao gồm:
Co thắt cơ nghiêm trọng do uốn ván có thể cản trở hoặc khiến bạn ngừng thở. Suy hô hấp là nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất. Thiếu oxy gây ngừng tim và tử vong. Viêm phổi là một nguyên nhân khác gây tử vong.
Nghiên cứu và thống kê: Bệnh uốn ván phổ biến như thế nào?
Trung bình mỗi năm chỉ có khoảng 30 trường hợp được báo cáo. Gần như tất cả các trường hợp uốn ván đều nằm trong số những người không được tiêm chủng ngừa uốn ván theo khuyến cáo. Điều này bao gồm những người chưa bao giờ được chủng ngừa uốn ván và những người lớn không tiêm nhắc lại các mũi tiêm sau 10 năm.
Uốn ván lần đầu tiên trở thành một căn bệnh phải báo cáo vào cuối những năm 1940. Vào thời điểm đó, có khoảng 500 đến 600 trường hợp được báo cáo mỗi năm. Sau khi vắc xin uốn ván được giới thiệu vào giữa những năm 1940, số ca mắc bệnh uốn ván được báo cáo đã giảm dần.
Hầu hết các trường hợp được báo cáo xảy ra ở người lớn. Từ năm 2000 đến năm 2019, hơn 55% trong số 579 trường hợp được báo cáo ở Hoa Kỳ là những người từ 20 đến 59 tuổi. Ngoài ra, hơn 30% số trường hợp được báo cáo đó là những người từ 60 tuổi trở lên. Nguy cơ tử vong do uốn ván cao nhất ở những người từ 60 tuổi trở lên.
Năm 2015, có khoảng 34.000 trẻ sơ sinh tử vong do uốn ván sơ sinh. Đây là mức giảm 96% so với năm 1988, khi ước tính có 787.000 trẻ sơ sinh chết vì uốn ván trong tháng đầu đời (mức giảm liên quan đến tỷ lệ tiêm phòng uốn ván cao hơn trong thai kỳ).
Các tình trạng liên quan đến bệnh uốn ván
Ngộ độc Strychnine là tình trạng duy nhất thực sự giống bệnh uốn ván do gây co thắt cơ. Tuy nhiên, một số tình trạng cũng có thể liên quan đến triệu chứng cứng hàm, bao gồm:
Tuy không phải là yếu tố quyết định nhưng dinh dưỡng có thể ảnh hưởng đến quá trình dậy thì ở nữ giới. Một chế độ ăn uống cân bằng, giàu dinh dưỡng, hạn chế các thực phẩm không lành mạnh sẽ giúp trẻ phát triển toàn diện và giảm thiểu các nguy cơ liên quan đến dậy thì sớm.
Trẻ em ngày nay có xu hướng dậy thì sớm. Dinh dưỡng cũng là một trong những yếu tố góp phần gây dậy thì sớm ở trẻ.
Da của chúng ta là cơ quan lớn nhất của cơ thể và nhiều tình trạng da có cả biểu hiện bên trong và bên ngoài. Chỉ có một số ít nghiên cứu đã xem xét cách chế độ ăn uống có thể tác động đến một số tình trạng da liễu nhất định. Bài viết dưới đây sẽ liệt kê danh sách các tình trạng da phổ biến và cách chế độ ăn uống có thể giúp ích hoặc gây hại cho làn da của bạn.
Sự thay đổi nội tiết tố ở phụ nữ tuổi mãn kinh không chỉ dẫn đến các triệu chứng được nhiều người biết đến như bốc hoả, thay đổi tâm trạng,…mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe xương, tăng nguy cơ loãng xương và gãy xương.
Xu hướng dậy thì sớm ngày càng gia tăng. Một số ít có thể là biểu hiện của bệnh lý, cần được điều trị đặc biệt.
Một nghiên cứu mới cho thấy, ngay cả khi bạn hút thuốc lá điện tử không chứa nicotine vẫn có tác động tiêu cực đến lưu lượng máu của cơ thể.
Khi bạn già đi, làn da cũng như các cơ quan khác sẽ bị lão hóa như một lẽ tự nhiên. Hãy cùng nhau tìm hiểu những điều xảy ra với làn da khi già đi qua bài viết dưới đây.
Tiêu hóa là một chức năng vô cùng quan trọng đảm bảo cho sự phát triển của cơ thể trong mọi giai đoạn, đặc biệt là năm đầu tiên của cuộc đời.