Phân loại mức độ nặng
Theo mức độ nặng, Hội Tâm thần học Mỹ năm 2013 chia tự kỷ thành 3 mức.
Mức độ 1
Về mặt giao tiếp xã hội: Nếu không có sự trợ giúp tại chỗ, các suy giảm về giao tiếp xã hội gây ra những thiếu hụt dễ nhận thấy. Khó khăn trong việc bắt đầu các tương tác xã hội và có những ví dụ rõ ràng về sự đáp ứng không điển hình hoặc không thành công với các đề nghị xã hội của những người khác. Có thể xuất hiện thu hẹp quan tâm tới các tương tác xã hội.
Hành vi định hình: Hành vi cứng nhắc gây cản trở một số chức năng. Khó chuyển đổi giữa các hoạt động. Gặp khó khăn khi tự mình tổ chức và lập kế hoạch.
Đây là mức độ cần có sự trợ giúp.
Mức độ 2
Giao tiếp xã hội: Trẻ thiếu hụt đáng kể các kỹ năng giao tiếp xã hội ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Giao tiếp xã hội vẫn hạn chế ngay cả khi có sự giúp đỡ tại chỗ. Giảm hoặc đáp ứng một cách bất thường với những đề nghị từ người khác.
Tính cứng nhắc hành vi, khó khăn trong ứng phó với thay đổi, hoặc những hành vi lặp lại/định hình thường xuất hiện đủ rõ, người khác dễ dàng nhận ra và gây cản trở hoạt động trong nhiều lĩnh vực.
Ở mức độ này, trẻ cần có sự hỗ trợ đáng kể.
Mức độ 3
Trẻ thiếu hụt nghiêm trọng các kỹ năng giao tiếp xã hội ngôn ngữ và phi ngôn ngữ dẫn đến hầu như không thể thực hiện được các chức năng.
Rất ít khi khởi đầu các tương tác xã hội và đáp ứng tối thiểu với những đề nghị mang tính xã hội từ người khác.
Hành vi cứng nhắc, rất khó thích ứng với những thay đổi, những hành vi lặp lại hoặc định hình khác gây cản trở rõ rệt các hoạt động trong mọi lĩnh vực.
Mức độ này cần sự hỗ trợ rất đáng kể.
Phân biệt tự kỷ với các bệnh khác
Chậm nói đơn thuần: Trẻ chậm nói do thiếu kích thích môi trường, trẻ vẫn có cử chỉ giao tiếp phù hợp lứa tuổi, có giao tiếp bằng mắt, gọi trẻ có đáp ứng, không phát âm vô nghĩa, vẫn chơi đa dạng, không thờ ơ với mọi người xung quanh. Nếu tích cực dạy trẻ sẽ phát triển ngôn ngữ.
Câm điếc: Trẻ không nói nhưng vẫn có cử chỉ điệu bộ giao tiếp thay cho lời nói, có giao tiếp mắt, có biểu lộ tình cảm và có quan tâm tới mọi người xung quanh.
Chậm phát triển trí tuệ: Trẻ chậm khôn, nhận thức chậm nhưng vẫn có ngôn ngữ giao tiếp tương đương với mức độ phát triển trí tuệ. Trẻ có tình cảm yêu ghét thông thường, có giao tiếp mắt, có cử chỉ giao tiếp, không cuốn hút quá mức vào một kiểu thích thú quan tâm đặc biệt.
Rối loạn sự gắn bó: Trẻ có biểu hiện thu mình, thờ ơ, sợ hãi nhưng không có những hành vi định hình, không phát âm vô nghĩa, không cuốn hút vào một hoạt động nào đặc biệt. Trẻ vẫn có giao tiếp bằng lời và không lời, cách chơi đa dạng.
Rối loạn tăng động giảm chú ý: Trẻ luôn hoạt động, hay lơ đãng, giảm sự chú ý, vẫn biết chơi giả vờ, chơi tưởng tượng, không có hành vi rập khuôn định hình.
Điều trị như thế nào?
Hiện chưa có thuốc đặc hiệu để điều trị rối loạn tự kỷ. Tuy nhiên cũng có thể dùng thuốc để điều trị một số rối loạn tâm thần kèm theo như: trầm cảm, lo âu, cơn co giật hoặc các vấn đề về hành vi.
Can thiệp tâm lý - giáo dục bắt đầu càng sớm càng tốt, nhất là khi trẻ ở lứa tuổi từ 2-4 tuổi. Chương trình can thiệp sớm cho trẻ tự kỷ bao gồm tác động tới trẻ và tư vấn cho gia đình để dạy trẻ.
Đối với trẻ cần tác động qua những phương pháp như: điều hòa đa giác quan, dạy các kỹ năng vận động tinh và vận động thô, kỹ năng giao tiếp bằng lời và không lời, chơi trị liệu, dạy kỹ năng tự lập trong sinh hoạt. Sử dụng liệu pháp hành vi (củng cố tích cực đối với hành vi tốt, chia nhỏ nhiệm vụ và lờ đi khi trẻ có hành vi không mong muốn) xuyên suốt trong quá trình dạy trẻ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?