Tổn thương do nhiễm khuẩn tùy thuộc tuổi bào thai
Nhiễm khuẩn bào thai làm tổn thương thần kinh trung ương, ảnh hưởng đến sự phát triển, hình thành ống thần kinh gây nên nhiều tổn thương. Mức độ tổn thương phụ thuộc vào tác nhân gây nhiễm khuẩn và giai đoạn của bào thai.
Nhiễm khuẩn ở giai đoạn phôi nang, phôi thai kháng lại các tác nhân quái thai kết quả là bào thai tử vong hoặc khỏi không có giảm chức năng. Trường hợp nhiễm khuẩn giai đoạn hình thành các cơ quan, có thể bào thai bị dị tật bẩm sinh nếu ở ba tháng giữa của thai kỳ.
Do não bào thai non nớt không thể sửa chữa các tổn thương hoặc di chuyển các tế bào bất thường và cân bằng các tổ chức bị khuyết. Nhiễm khuẩn bào thai giai đoạn muộn gây ra bởi vi-rút có thể không hoặc ít biểu hiện ở thai nhi.
Khi xâm nhập vào bào thai, vi-rút có thể làm chết tế bào phôi thai hoặc làm cho bào thai dừng phát triển, dừng phân chia tế bào.
Mức độ tổn thương não của bào thai còn phụ thuộc vào thời gian thai phụ nhiễm vi-rút, khoảng 80% có ban trên da trước 12 tuần của bào thai, 54% ở tuần thứ 13-14; 25% ở tuần cuối của 3 tháng giữa.
Vi-rút rubella làm tổn thương màng trong của đám rối mạch gây thiếu máu và rối loạn sự tăng sinh tổ chức, gây nang quanh não thất bên, vùng đồi thị – nhân xám trung ương, làm thiếu máu não, thiếu oxy, xuất huyết não do đẻ non.
Nếu bào thai bị nhiễm vi-rút Rubella sẽ gây dị tật não bẩm sinh. Vi-rút này gây tổn thương tim bẩm sinh; điếc tai ở bào thai trước 11 tuần. Thai phụ nhiễm Rubella ở 3 tháng giữa thai kỳ, sẽ gây rối loạn giao tiếp và chậm phát triển tinh thần ở 2/3 trẻ em sau khi sinh ra. Trẻ còn bị chậm phát triển đến 2 tuổi khi thai phụ nhiễm Rubella ở thời kỳ rất sớm.
Trẻ sinh ra bị yếu, giảm trương lực cơ, trán to, rộng và lồi lên; trẻ thường bị kích thích, tăng động, yếu vận mạch, sợ ánh sáng, chậm phát triển tinh thần vận động. Nhiều trẻ nhỏ bị giảm trương lực cơ, bị co giật ngay sau khi sinh.
Một số dị tật bẩm sinh hay gặp là đầu nhỏ, não úng thuỷ, thoát vị tuỷ; chậm nói, nghe kém ngoại biên do kém thính giác trung ương hay do chậm phát triển tinh thần; một số trẻ khác bị tổn thương thị giác như: viêm mạch máu võng mạc, trên võng mạc có đốm mất sắc tố, đốm đen dạng muối tiêu; trẻ sinh ra có mắt nhỏ, đục thuỷ tinh thể , bị cận thị nặng; nhiều trẻ bất thường điện não đồ…
Hiện chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu đối với vi-rút Rubella, vì vậy việc thực hiện một chế độ chăm sóc cho trẻ là cần thiết. Đối với các trẻ sống được lâu thường bị điếc, đục thuỷ tinh thể, bệnh võng mạc; chậm phát triển tinh thần vận động nặng, liệt cứng. Còn trẻ có tổn thương não nặng thường tử vong ở tuổi nhỏ.
Có thể phòng bệnh nhiễm rubella cho bào thai bằng cách tiêm vắc-xin cho thai phụ.
Bệnh do nhiễm vi-rút Cytomegalovirus (CMV)
Bào thai thường bị nhiễm vi-rút CMV ở 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ, khác với nhiễm rubella thường ở 3 tháng đầu của thai kỳ.
Vi-rút CMV gây lắng đọng canxi quanh não thất và làm thoái triển não, cuộn não nhỏ, rối loạn vận mạch, rối loạn sinh tế bào. Vi-rút còn làm tổn thương tai trong, nhất là ở tế bào Corti, hạch thần kinh.
Nếu thai nhi bị nhiễm khuẩn càng lâu thì tổn thương hệ thần kinh càng nặng. Khi sinh ra, trẻ bị gan, lách to, nhẹ cân (dưới 2500gram). Trẻ còn bị giảm tiểu cầu, có ban ngoài da, nhiều chấm canxi hoá trong não, não bé, bị thiếu máu huyết tán, viêm võng mạc, não úng thuỷ…Đến nay tuy đã có ganciclovir hay phosphonoformate nhưng việc điều trị kháng vi-rút vẫn không hiệu quả.
Bệnh thủy đậu
Thai nhi nhiễm vi-rút thủy đậu sẽ bị tổn thương thần kinh nhiều nơi gồm: não bé, bất thường đáy mắt, co giật, giãn các não thất, não lỗ, lắng đọng canxi trong não...
Khi sinh ra trẻ bị giảm trương lực cơ, mất phản xạ, các cơ nhỏ, rối loạn cơ tròn, cứng các chi, rối loạn dẫn truyền thần kinh cơ. Nếu mẹ bị bệnh sởi ở 20 tuần đầu của thai kỳ bào thai dễ bị ổn thương.
Điều trị: khi phụ nữ mang thai bị bệnh thủy đậu dùng acyclovir, varizig. Phòng bệnh thủy đậu tiêm vắc-xin cho phụ nữ dự định có thai nhưng chưa có miễn dịch với thủy đậu. Tuy nhiên những người đang có thai sẽ không được tiêm vắc-xin thủy đậu.
Bệnh nhiễm vi-rút Herpes
Nếu bị nhiễm vi-rút Herpes thai nhi sẽ bị não bé, canxi hoá trong não, mắt bé, loạn sản võng mạc. Khi sinh ra, trẻ sơ sinh có thể xuất hiện ban phỏng trên da.
Khi thai phụ bị bệnh do vi-rút Herpes có thể dùng một trong các thuốc aciclovir, valaciclovir và famciclovir uống.
Ngoài da, dùng thuốc bôi acyclovir dạng typ 5g có hoạt tính chống HSV gây bệnh ở người. Cần bôi thuốc càng sớm càng tốt khi bắt đầu có các triệu chứng báo hiệu hoặc khi xuất hiện các thương tổn đầu tiên.
Phòng bệnh: không tiếp xúc trực tiếp vùng da đang tổn thương của mình vào người khác như: hôn hít, sờ, chạm, quan hệ tình dục...Không dùng chung bàn chải đánh răng, khăn tắm, khăn lau mặt, cốc uống nước, bát đũa…
Lỵ trực khuẩn là tình trạng nhiễm khuẩn đường tiêu hóa cấp tính và cần được điều trị kịp thời để phòng tránh những biến chứng nguy hiểm.
Khi mùa thi đến gần, học sinh bước vào giai đoạn căng thẳng và áp lực cao, đòi hỏi sự tập trung tối đa cũng như khả năng ghi nhớ và tư duy sắc bén. Bên cạnh việc học tập chăm chỉ, chế độ dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường sức khỏe não bộ, giúp kiểm soát lo âu và tối ưu hóa hiệu suất học tập.
Trong bối cảnh các nhà khoa học không ngừng tìm kiếm các biện pháp phòng ngừa ung thư, chế độ ăn uống, đặc biệt là việc tiêu thụ trái cây và rau quả, được xem là một yếu tố quan trọng. Cà chua, với thành phần lycopene nổi bật, đang thu hút sự chú ý đặc biệt.
Việc thiết lập lịch trình ngủ và thói quen trước khi đi ngủ, đặt đồng hồ báo thức và điều chỉnh chế độ ăn uống là một số phương pháp có thể giúp bạn ngủ ngon hơn và thức dậy dễ dàng vào buổi sáng.
Tuy không có chế độ ăn kiêng đặc biệt nào có thể chữa khỏi hội chứng thiên thần nhưng dinh dưỡng hợp lý có thể giúp kiểm soát cân nặng, cải thiện giấc ngủ, quản lý táo bón và hỗ trợ phát triển nhận thức.
Dậy thì là một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời mỗi người, đánh dấu sự chuyển đổi từ trẻ em sang người trưởng thành. Đây là giai đoạn cơ thể có nhiều thay đổi về mặt thể chất và tâm sinh lý, đặt nền móng cho sức khỏe sinh sản và sức khỏe tổng quát trong tương lai. Việc thấu hiểu những biến đổi này, cùng với sự quan tâm, hỗ trợ từ gia đình và xã hội, sẽ giúp thanh thiếu niên vượt qua giai đoạn dậy thì một cách an toàn và khỏe mạnh.
Bệnh lao hạch gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe và khả năng ăn uống. Việc phát hiện sớm, điều trị đúng phác đồ và có chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ giúp người bệnh nhanh phục hồi sức khỏe.
Bạn có thể dùng salad như một bữa ăn lành mạnh hoặc món ăn kèm, nhưng salad có thể gây ra một số vấn đề về tiêu hóa tùy thuộc vào thành phần của nó. Rau và trái cây sống là những thực phẩm có thể gây đầy hơi và chướng bụng do một số hợp chất và vi khuẩn, và chúng có thể là lý do tại sao bạn có thể bị đau bụng dữ dội sau khi ăn salad.