Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) giải thích: “Quyết định hiến máu của bạn có thể cứu được một mạng người, hoặc thậm chí nhiều người nếu máu của bạn được tách thành các thành phần - tế bào hồng cầu, tiểu cầu và huyết tương - có thể được sử dụng riêng lẻ cho những bệnh nhân mắc các tình trạng cụ thể.”
Những bệnh nhân bị chấn thương nặng, đang phẫu thuật, điều trị hóa chất, hoặc mắc bệnh về tủy xương thường cần truyền các sản phẩm máu để tồn tại. Việc truyền một sản phẩm máu diễn ra cứ sau 2 giây ở Hoa Kỳ - tức là 21 triệu ca truyền mỗi năm! Dưới đây là những lầm tưởng phổ biến của mọi người về việc hiến máu.

1. Hiến máu có thể khiến bạn bị ốm
Bất cứ ai khỏe mạnh trước khi hiến máu sẽ không trở nên kém khỏe mạnh sau này. Mặc dù các bác sĩ khuyến cáo mọi người nên nghỉ ngơi một ngày và uống nước đường sau khi hiến máu nhưng sức khỏe của những cá nhân này không gặp nguy hiểm. Trong vòng 48 giờ sau khi hiến máu, lượng máu của một cá nhân trở lại bình thường - chủ yếu là do sự gia tăng huyết tương. Trong vòng 4–8 tuần, cơ thể sẽ thay thế tất cả các tế bào hồng cầu đã mất. Chuyên gia cho biết việc hiến máu cực kỳ an toàn. Phần lớn những người hiến máu có thể hiến một lít máu trong vòng chưa đầy 15 phút sau khi hoàn thành bảng câu hỏi sức khỏe và kiểm tra công thức máu của họ để đảm bảo rằng việc lấy máu của họ là an toàn. Phản ứng của những người hiến máu là rất hiếm. Bạn có thể cảm thấy mệt mỏi hoặc lâng lâng sau đó. Các triệu chứng này sẽ tự biến mất, nhưng bạn nên uống một chút nước và ăn nhẹ để đỡ đau. Bạn cũng có thể cảm thấy đau hoặc có vết bầm tím trên cánh tay nơi vị trí cắm kim tiêm lấy máu.
2. Người lớn tuổi không thể hiến máu
Đây không phải là sự thật. Ở Hoa Kỳ, những người trên 16 tuổi và nặng hơn 50 kg có thể cho máu. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là các quy tắc khác nhau ở một số quốc gia. Ví dụ, ở Vương quốc Anh, người hiến tặng phải từ 17–66 tuổi. Và những người đã từng hiến máu có thể tiếp tục hiến máu cho đến năm 70 tuổi. Bất kỳ ai trên 70 tuổi nhưng đã cho máu trong 2 năm trước đó cũng vẫn được hiến.
3. Nếu ai đó đang dùng thuốc, họ không thể hiến máu
Điều này không hẳn sai nhưng cũng không đúng. Những người đang dùng một số loại thuốc, bao gồm thuốc chống đông máu, thuốc chống kết tập tiểu cầu và một số phương pháp điều trị mụn trứng cá, không nên hiến máu. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, sử dụng thuốc không có nghĩa là bạn không thể hiến máu. Trước khi hiến máu, một người nên nói chuyện với chuyên gia y tế để kiểm tra xem liệu thuốc hiện tại của họ có ảnh hưởng đến việc hiến máu hay không. Điều quan trọng là, nếu bác sĩ đã kê đơn thuốc, mọi người không nên ngừng thuốc để hiến máu.
4. Cho máu tốn nhiều thời gian
Mặc dù việc đăng ký và xử lý có thể mất nhiều thời gian, nhưng quy trình hiến máu chỉ mất khoảng 8–10 phút. Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ giải thích rằng toàn bộ quá trình này mất khoảng 1 giờ 15 phút.
5. Nếu tôi được truyền máu, tôi có thể bị nhiễm trùng?
Mặc dù không liên quan chặt chẽ đến việc hiến máu, nhưng một lầm tưởng phổ biến khác là có nguy cơ lây nhiễm cao khi ai đó được truyền máu. Mọi người có thể bị nhiễm trùng do truyền máu nếu máu bị nhiễm trùng. Tuy nhiên, trường hợp này rất hiếm vì máu được sàng lọc nghiêm ngặt để tìm một số loại vi rút và vi khuẩn. Ví dụ, người ta ước tính khả năng lây nhiễm viêm gan C do truyền máu là khoảng 1/100 triệu.
6. Hiến máu rất đau
Một lần nữa, điều này không đúng mà cũng không hẳn là sai, vì có một số cơn đau khi kim đâm vào, nhưng nó tương đối nhẹ và chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Khi kim vào vị trí, người hiến máu sẽ có cảm giác thoải mái và không hề đau đớn. Sau khi hiến máu, có thể bị đau tại vị trí kim đâm vào. Một số người bị bầm tím, nhưng điều này thường vô hại và chúng thường biến mất sau vài ngày.
7. Bạn chỉ có thể cho máu một lần mỗi năm
Đây không phải là sự thật. Khi các tế bào máu đã được bổ sung, mất đến 8 tuần, bạn có thể an toàn để hiến máu lần nữa. Do đó, Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ khuyên mọi người có thể cho máu toàn phần 56 ngày một lần.
8. Bạn không thể hiến tặng nếu bạn bị cao huyết áp
Điều này không phải lúc nào cũng đúng. Miễn là ai đó có huyết áp tâm thu thấp hơn 180 mm thủy ngân (mm Hg) và huyết áp tâm trương thấp hơn 100 mm Hg, họ có thể hiến máu. Mặc dù sử dụng một số loại thuốc điều trị cao huyết áp có nghĩa là không thể cho máu, tuy nhiên không phải tất cả. Bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi đưa ra quyết định.
9. Bạn không thể quyên góp nếu bạn có lượng cholesterol cao
Điều này là không đúng sự thật - cả nồng độ cholesterol trong máu cao hay sử dụng thuốc giảm cholesterol đều không ảnh hưởng đến điều kiện hiến máu của một người nào đó.
10. Người ăn chay và thuần chay không bao giờ được hiến máu
Đây là tin đồn sai sự thật. Một số người ăn chay / thuần chay không hấp thụ đủ chất sắt và có thể bị thiếu máu. Tuy nhiên, nhân viên y tế sàng lọc từng người hiến tặng về tình trạng thiếu máu, và những người hiến tặng có nguy cơ thiếu máu sẽ không được phép hiến tặng.
11. Đã có đủ người hiến máu
Đáng buồn thay, điều này không đúng. Vì máu có hạn sử dụng nên việc duy trì nguồn cung cấp đầy đủ là một thách thức liên tục. Các tế bào hồng cầu hiến tặng phải được sử dụng trong vòng 42 ngày. Tiểu cầu hiến tặng phải được sử dụng trong vòng 5 ngày. Vì vậy, máu đã hiến cần được bổ sung liên tục và hệ thống luôn tìm kiếm thêm nhiều tình nguyện viên để hiến tặng. Luôn luôn cần có nhiều người hiến máu hơn. Số lượng người hiến máu đủ tiêu chuẩn ít hơn mọi người nghĩ. Mỗi người hiến tặng đều được kiểm tra cẩn thận về sự hiện diện của các bệnh truyền nhiễm và các tình trạng khác có thể khiến máu của họ không phù hợp để hiến cho người khác. Cần có nguồn cung cấp liên tục các nguồn máu từ những người hiến tặng đủ tiêu chuẩn để đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Thức ăn tốt nhất cho bạn sau khi hiến máu
Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!
Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.
Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.
Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?
Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.
Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.
Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.