Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Mất ngủ và những con số thống kê

Theo khuyến cáo, người trưởng thành nên ngủ khoảng 7 tiếng mỗi đêm nhưng tại Mỹ, cứ 3 người trưởng thành thì sẽ có một người không ngủ đủ lượng khuyến nghị mỗi đêm. Không ngủ đủ giấc sẽ khiến cơ thể khó thực hiện các chức năng tốt trong suốt cả ngày. Mất ngủ có thể là nguyên nhân dẫn đến các vấn đề sức khỏe khác và có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai.

Tỷ lệ mất ngủ

Mất ngủ là một tình trạng phổ biến. Viện nghiên cứu về giấc ngủ Hoa Kỳ (AASM) thống kê rằng:

  • Cứ 3 người sẽ có 1 người xuất hiện các triệu chứng mất ngủ
  • 15-20% số tình trạng mất ngủ ngắn hạn sẽ kéo dài dưới 3 tháng
  • 75% số người trưởng thành trên 65 tuổi có các triệu chứng mất ngủ

Cứ 10 người sẽ có 1 người có triệu chứng mất ngủ mãn tính, là tình trạng mất ngủ ít nhất 3 lần/tuần, kéo dài trong ít nhất 3 tháng.

Nghiên cứu năm 2014 gợi ý rằng một phần năm số người trẻ và thanh thiếu niên có các triệu chứng mất ngủ. Tỷ lệ triệu chứng cao nhất gặp ở nữ giới 11-12 tuổi.

Yếu tố nguy cơ và nguyên nhân

Viên Nghiên cứu giấc ngủ quốc gia Hoa Kỳ (NIH) đã liệt kê các yếu tố nguy cơ của tình trạng mất ngủ bao gồm:

  • Tuổi: bạn sẽ dễ bị mất ngủ hơn nếu bạn lớn tuổi
  • Tiền sử gia đình và yếu tố di truyền: một số gen nhất định có thể ảnh hưởng đến các yếu tố giấc ngủ
  • Môi trường: làm việc theo ca, làm việc ca đêm và lệch múi giờ cũng có thể ảnh hưởng đến chu kỳ ngủ - thức.
  • Căng thẳng: lo lắng sẽ làm tăng nguy cơ khó ngủ. Lo lắng về việc không ngủ đủ giấc sẽ càng làm tình trạng này nặng hơn.
  • Giới tính: nữ giới bị mất ngủ nhiều hơn nam giới, có thể là do sự thay đổi hormone. Mang thai và mãn kinh cũng có thể đóng một vai trò nhất định trong việc gây ra tình trạng mất ngủ.

Các yếu tố khác về lối sống có thể làm tăng nguy cơ mất ngủ bao gồm:

  • Thay đổi thói quen ngủ thường xuyên
  • Bị gián đoạn giấc ngủ
  • Ngủ quá nhiều trong suốt cả ngày
  • Sử dụng caffeine, đồ uống có cồn, nicotine hoặc một số loại thuốc
  • Sử dụng các thiết bị điện tử quá gần giấc ngủ.

Nghiên cứu năm 2019 trên 2003 người trưởng thành cho thấy:

  • 88% số người bị mất ngủ xem nhiều tập phim hoặc xem một series truyền hình trước khi ngủ
  • 72% số người trưởng thành 18-34 tuổi và 35% số người trưởng thành trên 35 tuổi bị mất ngủ do chơi trò chơi điện tử
  • 66% số người trưởng thành mất ngủ do đọc sách
  • 60% số người trưởng thành mất ngủ do xem thể thao

Gián đoạn giấc ngủ cũng có thể xảy ra do đáp ứng với các sự kiện căng thẳng, ví dụ như thảm họa thiên nhiên, bạo lực hoặc chiến tranh.

Đại dịch COVID-19 ảnh hưởng đến toàn thế giới và cũng đã ảnh hưởng khá lớn đến giấc ngủ của chúng ta. Nghiên cứu tháng 2 năm 2020 trên hơn 5600 người trưởng thành tại Trung Quốc đã xem xét những ảnh hưởng của đại dịch lên giấc ngủ và thấy rằng: tỷ lệ bị mất ngủ lâm sàng tăng 37% tại thời điểm đỉnh dịch so với thời kỳ trước đại dịch. Nghiên cứu mới đây cũng cho thấy rằng sau sự kiện ngày 11/9, các cựu chiến binh đặc biệt nhạy cảm với tình trạng mất ngủ với khoảng 57.2% sàng lọc có dấu hiệu rối loạn mất ngủ. Có mối liên hệ 2 chiều giữa chứng rối loạn giấc ngủ và trầm cảm. Khoảng 90% số người bị trầm cảm đã mắc các rối loạn khác về giấc ngủ như mất ngủ, ngưng thở khi ngủ hoặc chân không yên khi ngủ.

Biến chứng và các tình trạng đi kèm

Thiếu ngủ, kể cả trong thời gian ngắn, có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến:

  • Mức năng lượng
  • Tâm trạng
  • Hiệu suất làm việc, học tập
  • Khả năng ghi nhớ, tập trung và ra quyết định
  • Khả năng phán đoán

Mất ngủ cũng làm nặng thêm các vấn đề về sức khỏe như tăng nguy cơ phát triển các vấn đề như:

  • Hen suyễn
  • Đau mạn tính
  • Giảm đáp ứng miễn dịch
  • Các vấn đề về tim mạch
  • Tăng huyết áp
  • Các rối loạn tâm thần như lo âu và trầm cảm
  • Hội chứng chuyển hóa, tiểu đường
  • Thừa cân béo phì
  • Các biến chứng thai kỳ
  • Rối loạn sử dụng thuốc

Mất ngủ ở người cao tuổi có thể làm tăng nguy cơ suy giảm nhận thức và mất trí. So với những người ngủ đủ 7-9 tiếng mỗi đêm thì:

  • Người ngủ trung bình ít hơn 6 tiếng sẽ có nguy cơ tử vong cao hơn 13%
  • Ngủ từ 6-7 tiếng mỗi đêm sẽ có nguy cơ tử vong cao hơn 7%.

Nghiên cứu xem xét nguy cơ mất ngủ trong 10 năm cho thấy những người có ít nhất 3 triệu chứng mất ngủ (như khó đi vào giấc ngủ, hoặc trằn trọc, dậy quá sớm hoặc khó tập trung trong cả ngày) sẽ có nguy cơ bị đột quỵ, nhồi máu cơ tim và các bệnh lý tương tự cao hơn 18% so với những người không mắc các triệu chứng mất ngủ.

Thống kê về việc sử dụng thuốc

Nghiên cứu từ năm 2019 chỉ ra rằng một phần năm số người cao tuổi đang sử dụng thuốc ngủ kê đơn. Dữ liệu từ CDC chỉ ra rằng 4% số người trên 20 tuổi sử dụng các sản phẩm hỗ trợ giấc ngủ dạng kê đơn, bao gồm 5% số phụ nữ và 3.1% số nam giới. Các thuốc ngủ kê đơn cho tình trạng mất ngủ bao gồm: chất chủ vận thụ thể benzodiazepine, chất chủ vận thụ thể không phải benzodiazepine, chất chủ vận thủ thể melatonin, chất chủ vận thủ thệ histamine, chất chủ vận thụ thể orexin.  Các loại thuốc khác như thuốc chống trầm cảm hoặc một số loại thuốc kê đơn sử dụng ngoài hướng dẫn cũng được sử dụng cho các trường hợp mất ngủ. Các thuốc kê đơn và không kê đơn cũng có thể gây ra các phản ứng phụ và tương tác với các loại thuốc khác. Đa số các loại thuốc này chỉ nên sử dụng trong một thời gian ngắn.

Lối sống

Một số thói quen về lối sống cũng có thể khiến bạn dễ ngủ hơn và buồn ngủ hơn:

  • Đi ngủ đúng giờ mỗi ngày và thức dậy đúng giờ mỗi buổi sáng
  • Giữ phòng ngủ luôn mát, yên tĩnh và tối, tránh xa các nguồn sáng nhân tạo như từ các thiết bị điện tử
  • Thường xuyên luyện tập thể thao trong suốt cả ngày nhưng tránh luyện tập trong vòng 5-6 tiếng trước giờ đi ngủ
  • Tránh ngủ trưa quá lâu

Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: MẸ MỚI SINH NÊN ĂN GÌ?

Ths. Liên Hương - Viện Y học ứng dụng Việt Nam (theo Healthline) -
Bình luận
Tin mới
  • 04/07/2025

    Tìm hiểu về các loại bệnh võng mạc

    Có rất nhiều loại bệnh võng mạc khác nhau. Những bệnh này có thể do gen di truyền từ cha mẹ hoặc từ tổn thương võng mạc tích lũy trong suốt cuộc đời. Một số loại bệnh võng mạc phổ biến hơn các bệnh khác.

  • 03/07/2025

    5 lợi ích tiềm năng khi ăn chuối luộc

    Chuối là một trong những loại thực phẩm có lợi ích dinh dưỡng đáng kể. Vậy khi ăn chuối luộc có tác dụng gì?

  • 03/07/2025

    10 dấu hiệu cho thấy có thể bạn đang nhiễm ký sinh trùng

    Nhiễm ký sinh trùng có thể dẫn đến một loạt các vấn đề sức khỏe như các triệu chứng về tiêu hóa không rõ nguyên nhân, ngứa, thiếu máu, đau cơ và khớp, ăn không thấy no,… Cùng tìm hiểu về 10 dấu hiệu cho thấy có thể bạn đang nhiễm ký sinh trùng qua bài viết sau đây!

  • 02/07/2025

    Lý do nước dừa là thức uống tự nhiên kỳ diệu

    Nước dừa có thành phần dinh dưỡng đặc biệt và nhiều lợi ích cho sức khỏe như cung cấp chất điện giải, giúp hạ huyết áp... Đây là lý do nước dừa ngày càng trở thành lựa chọn phổ biến của nhiều người.

  • 02/07/2025

    Tất tần tật về trà thảo mộc

    Dù là trà đen, trà xanh, trà trắng hay trà ô long, trà nóng hay trà đá đều có nguồn gốc từ cây trà, Camellia sinensis. Nhưng trà thảo mộc thì khác. Trà thảo mộc bắt nguồn từ việc ngâm nhiều loại hoa, lá hoặc gia vị trong nước nóng. Hầu hết các loại trà này đều không có caffeine. Bạn có thể bắt đầu bằng những túi trà làm sẵn hoặc ngâm các nguyên liệu rời và sau đó lọc bỏ bã.

  • 01/07/2025

    Sự thật về phương pháp thải độc bằng nước cốt chanh

    Nhiều người thực hiện thải độc cơ thể theo hướng dẫn truyền miệng và trên các nền tảng xã hội... và hiện nay đang dấy lên trào lưu thải độc bằng nước cốt chanh. Vậy sự thật về phương pháp thải độc này như thế nào?

  • 01/07/2025

    Cách sử dụng dầu dừa điều trị chàm

    Dầu dừa là một chất dưỡng ẩm tự nhiên. Nhiều người bị chàm nhận thấy dầu dừa có tác dụng làm dịu da và giảm các triệu chứng như khô và ngứa.

  • 01/07/2025

    Vai trò của chất béo trong chế độ ăn lành mạnh

    Chất béo thường bị mang tiếng xấu mỗi khi nói về chế độ dinh dưỡng vì cho rằng đó là nguyên nhân gây bệnh tim mạch, tiểu đường hay béo phì. Quan niệm cắt bỏ hoàn toàn chất béo khỏi bữa ăn đã từng phổ biến trong một số khuyến nghị dinh dưỡng. Thực tế, không phải tất cả các chất béo đều có hại.

Xem thêm