Nam giới vẫn có khả năng giải phóng ra tinh trùng hoạt động khi bước vào tuổi già. Tuy nhiên, càng ngày càng có nhiều bằng chứng khoa học chứng minh rằng chất lượng tinh trùng sẽ giảm đi theo tuổi. Chị em thậm chí còn bị đồng hồ sinh học chi phối nhiều hơn nam giới. Phụ nữ khi sinh ra đã có tất cả số trứng mà họ sẽ có trong đời, và số trứng này sẽ giảm dần sau mỗi chu kỳ kinh nguyệt hàng tháng, do vậy khả năng sinh sản của chị em sẽ giảm dần theo tuổi.
Dưới đây là khả năng mang thai và những vấn đề sức khỏe trong thai kỳ tùy theo độ tuổi của người phụ nữ.
Mang thai ở độ tuổi 20
Cơ thể người phụ nữ có thể mang thai hoàn hảo nhất là khi ở độ tuổi 20. Khi đó, những năm tháng vị thành niên đã kết thúc. Trứng của người phụ nữ đủ khỏe và đủ trưởng thành để có thể thụ thai. Ở độ tuổi này, cơ thể phụ nữ cũng có thể xử lý tốt hơn các tác động của việc có thêm trọng lượng đặt lên lưng, xương và cơ. Phụ nữ ở độ tuổi 20 cũng có nguy cơ mắc các biến chứng về thai kỳ thấp nhất.
Nguy cơ xảy thai ở độ tuổi 20 rất thấp, chỉ khoảng 15%. Nguy cơ sinh con bị hội chứng Down, bị nứt đốt sống hoặc các dị tật bẩm sinh về nhiễm sắc thể cũng rất thấp. Theo thống kê, ở độ tuổi 25, nguy cơ sinh con bị Down chỉ là 1/1.250 trong khi nếu sinh con ở độ tuổi 40, tỷ lệ này sẽ tăng lên thành 1/100.
Tuy nhiên, mang thai ở độ tuổi 20 cũng có một số nguy cơ nhất định. Theo Mayo Clinic, nguy cơ tăng huyết áp do mang thai (tiền sản giật) ở độ tuổi này là cao hơn.

Theo thống kê tại Mỹ, cứ 5 phụ nữ thì có 1 phụ nữ sẽ đợi đến khi sau 35 tuổi mới sinh đứa con đầu tiên. Vào độ tuổi này, khả năng sinh sản đã bắt đầu yếu đi. Tuy nhiên, cơ thể vẫn đủ khả năng để sinh ra một đứa bé khỏe mạnh. Nhưng bạn sẽ phải kiên nhẫn hơn để có thể thụ thai được. Theo thống kê, tỷ lệ thụ thai mỗi tháng ở độ tuổi 30 chỉ là 20%. Phụ nữ ở độ tuổi 30 thường cần khoảng 3-6 tháng để có thể thụ thai thành công, so sánh với những phụ nữ ở độ tuổi trẻ hơn.
Phụ nữ ở độ tuổi 30 cũng có nguy cơ mắc các vấn đề sức khỏe liên quan đến thai kỳ cao hơn, ví dụ như:
Các bệnh mãn tính, như tiểu đường và tăng huyết áp thường trở nên rõ ràng hơn ở độ tuổi này. Tổn thương các cơ quan và mô do các bệnh mãn tính này có thể làm thai kỳ của bạn trở nên phức tạp hơn.
Tuổi 35 là dấu mốc đánh dấu thai kỳ “có nguy cơ cao”. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là khi bạn bước vào tuổi 35, mọi thứ sẽ đi xuống dốc ngay lập tức. Thay vào đó, bác sỹ chỉ dùng độ tuổi này như một chỉ báo để xác định được khi nào nên bắt đầu theo dõi một số vấn đề của thai kỳ.
Ở độ tuổi này, khả năng sinh ra đứa trẻ mắc các dị tật về nhiễm sắc thể như hội chứng Down cũng tăng lên. Nếu bạn mang thai ở độ tuỏi 35, em bé của bạn sẽ:
Nguy cơ xảy thai ở nửa cuối độ tuổi 30 cũng tăng lên gấp đôi so với khi bạn ở độ tuổi 20.
Mang thai ở tuổi 40 không phải quá hiếm gặp. Trên thực tế, từ năm 2007 đến 2009, tại Mỹ, Trung tâm Phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ - CDC thống kê rằng những ca sinh nở của phụ nữ trong độ tuổi từ 40-44 tăng lên 6%. Điều này cho thấy phụ nữ ngày càng có xu hướng sinh con muộn hơn. dovậy, nguy cơ liên quan đến việc mang thai ở độ tuổi này nên được chú ý, đặc biệt là khi người phụ nữ ở nửa cuối độ tuổi 40.
50% số phụ nữ ở độ tuổi 40 bị vô sinh hoặc gặp khó khăn trong việc thụ thai. Theo thống kê, phụ nữ ở độ tuổi 40 chỉ có khoảng 5% khả năng thụ thai mỗi tháng. Tỷ lệ này đúng cho cả các trường hợp mang thai tự nhiên và cả các trường hợp mang thai có sự can thiệp của y tế.
Các nguy cơ về sức khỏe liên quan đến mang thai ở độ tuổi 40 cũng giống như các nguy cơ gặp phải khi người mẹ ở nửa cuối độ tuổi 30. Sự khác nhau giữa 2 giai đoạn này chỉ là các ảnh hưởng tiềm ẩn lên em bé. Khả năng sinh ra em bé có các dị tật về nhiễm sắc thể tăng lên đáng kể. Ở phụ nữ độ tuổi 40, nguy cơ sinh ra các em bé mắc hội chứng Down là 1/100, tỷ lệ này sẽ tăng lên là 1/30 nếu người mẹ từ 45 tuổi trở lên. Tỷ lệ sẩy thai cũng tăng lên theo. Khi người mẹ trên 45 tuổi, tỷ lệ s thai là hơn 50%.
Phụ nữ ở độ tuổi 40 cũng có khả năng mang đa thai nhiều hơn, kể cả khi không có can thiệp về y tế. Nguyên nhân là do những thay đổi về hormone xảy ra một cách tự nhiên ở phụ nữ độ tuổi 40 có thể kích thích cơ thể giải phóng ra nhiều hơn 1 trứng.
Mặc dù có một số nguy cơ nhất định, nhưng nguy cơ mắc các biến chứng nói chung sẽ giảm đi nếu bạn:
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: NÊN mang thai ở độ tuổi bao nhiêu?
Vi nhựa, những mảnh vụn nhựa li ti hiện diện khắp mọi nơi - từ không khí, nước, đất, đến thực phẩm - đang dần trở thành một mối lo ngại lớn về sức khỏe.
Để bảo vệ đôi môi, chúng ta thường sử dụng son dưỡng môi, giúp duy trì độ ẩm và ngăn ngừa tình trạng khô môi. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm thương mại chứa các chất hóa học, một số nguyên liệu tự nhiên có thể được tận dụng như các biện pháp khắc phục tại nhà an toàn và hiệu quả.
Bạn có thường xuyên quên những điều nhỏ nhặt như tên người quen hay vị trí chìa khóa không? Trí nhớ suy giảm là một phần tự nhiên của quá trình lão hóa, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận nó.
Vỏ của nhiều loại trái cây và rau củ có chứa các dưỡng chất có lợi cho sức khỏe như chất xơ, vitamin, khoáng chất, chất chống oxy hóa, giúp tăng cường hệ miễn dịch, cải thiện tiêu hóa...
Gừng thường được coi là nguyên liệu chính trong các phương pháp tự nhiên để giảm bớt các vấn đề về tiêu hóa. Mặc dù gừng là một lựa chọn tốt nhưng có một số loại thực phẩm khác có thể hỗ trợ tiêu hóa hiệu quả hơn.
Giấc ngủ là một phần thiết yếu của cuộc sống, chiếm khoảng 1/3 thời gian của chúng ta, mặc dù nó khiến cơ thể dễ bị tổn thương. Điều này là do giấc ngủ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tái tạo năng lượng, duy trì sức khỏe tổng thể, hỗ trợ chức năng não bộ, cải thiện trí nhớ, tăng cường hệ miễn dịch và giảm nguy cơ mắc các bệnh lý nghiêm trọng. Bài viết này sẽ đi sâu vào những lợi ích này và hướng dẫn cách tối ưu hóa giấc ngủ để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Cuộc tranh luận về protein động vật và protein thực vật đã kéo dài từ lâu. Sự khác biệt cốt lõi giữa hai nguồn đạm này là gì và nó ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu sức khỏe?
Việc suy giảm hormone không phải là vấn đề riêng của ai cả, đặc biệt là trong mùa đông. Mùa đông gây ảnh hưởng tới rối loạn hormone và nội tiết tố cả ở nam giới và nữ giới.