Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Sẩy thai: dấu hiệu, nguyên nhân và phương hướng điều trị - phần 1

Sẩy thai là hiện tượng thai bị tống ra khỏi buồng tử cung trước tuổi thai có thể sống được, tuổi đó được tính từ lúc thụ tinh là 180 ngày hay 28 tuần vô kinh.

Sẩy thai: dấu hiệu, nguyên nhân và phương hướng điều trị - phần 1

Theo thống kê, có khoảng 10 đến 20% phụ nữ mang thai bị sẩy, trong đó 80% trong số này bị sẩy thai khi thai trước 12 tuần. Số liệu này không bao gồm các trường hợp trứng đã được thụ tinh nhưng không phát triển thành thai. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng 30 đến 50% trứng đã thụ tinh bị hỏng trước hoặc trong quá trình làm tổ trong tử cung của mẹ. Những trường hợp này xảy ra khá sớm, sớm đến mức mẹ vẫn sẽ có chu kỳ kinh nguyệt như bình thường.

Dấu hiệu của sẩy thai

Nếu bạn bị những dấu hiệu sau khi mang thai, hãy đi khám ngay để biết liệu thai nhi có nguy cơ gì cần giải quyết luôn không.

Ra máu âm đạo: Thông thường đây là dấu hiệu đầu tiên báo hiệu việc sẩy thai.Tuy nhiên, hãy nhớ rằng trong 4 phụ nữ mang thai có 1 người ra máu (nhận biết bằng cách thấy máu ở quần lót hoặc trên giấy vệ sinh) trong những tháng đầu của thai kì, và đa số họ không bị sẩy thai.

Đau bụng: đau bụng thường bắt đầu sau khi bạn bị ra máu âm đạo. Cơn đau có thể dai dẳng hoặc thoáng qua, dữ dội hoặc âm ỉ, hoặc bạn có thể có cảm giác giống đau lưng hoặc mỏi hông.

Nếu bạn bị cả chảy máu âm đạo và đau bụng thì nguy cơ sẩy thai càng cao. Một điều quan trọng nên nhớ khác đó là chảy máu âm đạo, hoặc đau bụng trong thời kì sớm mang thai cũng có thể là dấu hiệu của chửa ngoài tử cung hoặc chửa trứng.

Thêm vào đó, nếu bạn có nhóm máu Rh-, có thể bạn sẽ cần tiên một mũi globulin miễn dịch Rh trong vòng 2 đến 3 ngày sau khi chảy máu lần đầu, trong trường hợp bố đứa trẻ  có nhóm máu Rh+.

Một số trường hợp sảy thai được phát hiện khi đi khám thai định kì, khi mà bác sỹ không nghe thấy tim thai hoặc hoặc phát hiện ra tử cung không phát triển theo hướng bình thường (Thông thường thai nhi sẽ dừng phát triển một vài tuần trước khi triệu chứng như chảy máu âm đạo hoặc đau bụng bắt đầu).

Nếu bác sỹ nghi ngờ rằng có thể bạn có nguy cơ sẩy thai, bác sỹ sẽ chỉ định bạn làm siêu âm để đánh giá tình hình thai nhi và tử cung. Bạn cũng có thể sẽ phải làm thêm xét nghiệm máu.

Nguyên nhân gây ra sẩy thai

Khoảng 50 đến 70% trường hợp sảy thai trong 3 tháng đầu là ngẫu nhiên do sự bất thường của nhiễm sắc thể trong trứng đã thụ tinh. Điều này có nghĩa rằng trứng hoặc tinh trùng có số lượng nhiễm sắc thể bất thường làm cho trứng thụ tinh không thể phát triển bình thường.

Thỉnh thoảng sẩy thai là do những vấn đề xảy ra trong quá trình phát triển khá nhạy cảm và mong manh của những tháng đầu.  Nó có thể là do trứng làm tổ không đúng chỗ trong tử cung hoặc phôi thai có bất thường về mặt cấu trúc dẫn đến không phát triển được.

Do phần lớn những phụ nữ khỏe mạnh sau khi bị sẩy thai lần đầu không làm kiểm tra sức khỏe tổng thể nên khó có thể biết được chính xác lí do dẫn đến sảy thai. Thậm chí ngay cả khi một kiểm tra đánh giá cụ thể được tiến hành, ví dụ  sau khi bạn bị sảy thai hai ba lần liên tiếp, thì nguyên nhân vẫn chưa rõ ràng trong nửa số trường hợp.

Trứng đã thụ tinh có bất thường trong nhiễm sắc thể có thể dẫn đến trường hợp ''hỏng trứng''. Trong trường hợp này, trứng đã thụ tinh làm tổ trong tử cung và nhau thai, bào thai bắt đầu phát triển, nhưng phôi thai cuối cùng hoặc là dừng phát triển từ giai đoạn sớm hoặc là không hình thành cơ thể.

Vì nhau thai bắt đầu tiết hormon, bạn sẽ có kết quả thử thai dương tính, và có thể sẽ có các triệu chứng mang thai sớm, tuy nhiên siêu âm lại cho kết quả bào thai rỗng. Trong những trường hợp khác, phôi thai phát triển trong giai đoạn sớm nhưng có một số bất thường làm cho phôi không thể tồn tại được, vì thế dừng phát triển trước khi có tim thai.

Nếu thai nhi có nhịp tim bình thường, có thể thấy trên siêu âm từ tuần thứ 6, và bạn không có bất kì triệu chứng nào như chảy máu âm đạo hay đau bụng, thì tỉ lệ bạn bị sẩy thai sẽ giảm nhanh chóng và tiếp tục giảm hằng tuần.

Yếu tố làm tăng nguy cơ sẩy thai.

Mặc dù bất kì phụ nữ nào cũng có nguy cơ sẩy thai, một số có nguy cơ cao hơn. Sau đây là một số yếu tố làm tăng nguy cơ sẩy thai:

Tuổi tác:  những phụ nữ có tuổi cao có tỉ lệ mang thai với bộ nhiêm sắc thể bất thường và vì thế tỉ lệ sẩy thai cũng cao hơn. Trên thực tế, phụ nữ trên 40 tuổi có nguy cơ sẩy thai cao gấp 2 lần so với phụ nữ 20 tuổi. Sinh càng nhiều con, nguy cơ cao sẩy thai càng cao.

Tiền sử sẩy thai: phụ nữ có trên 2 lần sẩy thai liên tiếp dễ sẩy thai hơn.

Rối loạn hoặc bệnh về nhiễm sắc thể: bệnh tiểu đường được kiểm soát kém và các rối loạn đông máu di truyền, bệnh miễn dịch (ví dụ như lupus ban đỏ hệ thống), hoặc rối loạn hormon (như hội chứng buồng trứng đa nang) là những bệnh làm tăng nguy cơ sẩy thai.

Các vấn đề về tử cung hoặc cổ tử cung: bất thường bẩm sinh về tử cung, dày dính tử cung mạnh, hoặc cổ tử cung ngắn bất thường hoặc yếu, làm tăng nguy cơ sẩy thai. Mối liên hệ giữa u xơ tử cung (lành tính) và sẩy thai vẫn còn đang gây tranh cãi, tuy nhiên, đa số u xơ không gây sảy thai.

Tiền sử dị tật bẩm sinh và bất thường gen: Nếu vợ chồng bạn, hoặc bất kì thành viên nào trong gia đình có bất thường về gen, hoặc từng có một lần mang thai mà thai nhi được xác định có bất thường gen, hoặc đã có con bị dị tật bẩm sinh, thì bạn có nguy cơ cao bị sẩy thai.

Nhiễm trùng: các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng các phụ nữ mang thai có nguy cơ sẩy thai cao hơn nếu bị nhiễm, listeria, quai bị, rubella, sởi, cytomegalovirus, parvovirus, lậu, HIV và những nhiễm khuẩn thông thường khác.

Hút thuốc, uống rượu và ma túy : hút thuốc, uống rượu, sử dụng thuốc như cocaine và thuốc gây trạng thái kích thích ảo giác trong suốt quá trình mang thai đều làm tăng nguy cơ sẩy thai. Các nghiên cứu đã tìm ra mối liên hệ giữa việc uống nhiều caffeine và tăng nguy cơ sảy thai.

Thuốc: một số loại thuốc làm tăng nguy cơ sảy thai, việc cho bác sĩ biết về các loại thuốc bạn đang dùng, ngay cả khi bạn đang chuẩn bị mang thai, là rất quan trọng. Những loại thuốc này có cả thuốc theo đơn và thuốc không bán theo đơn, bao gồm thuốc chống viêm không steroid như ibuprofen và aspirin.

Các chất độc trong môi trường: chì, asen, một số chất hóa học, như formaldehyde, benzen và ethylene oxide , và phóng xạ liều cao, khí gây mê đều làm tăng nguy cơ sảy thai.

Các yếu tố nguy cơ từ người cha: hạn chế về hiểu biết về tiển sử bệnh tật của bố có thể làm tăng nguy cơ sảy thai, mặc dù nguy cơ tăng theo khi tuổi bố tăng lên. Các nhà nghiên cứu vẫn đang tiến hành các nghiên cứu để tìm xem trong phạm vi nào mà các tinh trùng có thể bị tổn thương bởi các chất độc trong môi trường nhưng vẫn thụ tinh được. Một số nghiên cứu cho thấy rằng nếu bố tiếp xúc với thủy ngân, chì, các hóa chất công nghiệp và thuốc trừ sâu cũng làm tăng nguy cơ sẩy thai.

Béo phì: một số nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa béo phì và sẩy thai.

Các thủ thuật dùng trong chẩn đoán: chọc ối và xét nghiệm lông nhung màng đệm, những thủ thuật để chẩn đoán bất thường trong gen, có làm tăng một phần nguy cơ sẩy thai.

Nguy cơ sẩy thai cũng tăng nếu bạn mang thai sau mới sinh chỉ 3 tháng.

Mời các bạn tiếp tục theo dõi bài viết Sẩy thai: dấu hiệu, nguyên nhân và phương hướng điều trị - phần 2 trong những ngày tới.

Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Sử dụng kháng sinh khi mang thai: những lưu ý cần thiết

CTV Mai Mai - Viện Y học ứng dụng Việt Nam - Theo Babycentre
Bình luận
Tin mới
  • 04/12/2025

    Loãng xương ở phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh

    Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!

  • 04/12/2025

    Ai không nên ăn thịt lợn nọng?

    Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.

  • 04/12/2025

    Sự thật về tóc bạc

    Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.

  • 03/12/2025

    Có nên dùng ‘đường ăn kiêng’ để giảm cân?

    Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?

  • 03/12/2025

    Viêm xoang trong mùa đông

    Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.

  • 02/12/2025

    Eswatini – Quốc gia đầu tiên trên thế giới triển khai mũi tiêm phòng HIV hai lần mỗi năm

    Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.

  • 02/12/2025

    4 lợi ích nổi bật nhất của rau càng cua với sức khỏe

    Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.

  • 02/12/2025

    Các dấu hiệu nhận biết đột quỵ vào mùa đông

    Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.

Xem thêm