Tại sao nguyên nhân của sự việc này chưa rõ ràng. Nó có thể là do thiếu dinh dưỡng và không hấp thu được chất dinh dưỡng có thể dẫn đến lo lắng ở những người được chẩn đoán với bệnh celiac (những người có tổn thương ruột non ngăn họ không hấp thu được chat dinh dưỡng).
Những những người nhạy cảm với gluten không bị tổn thương ruột non và một số trải qua tình trạng lo lắng tương tự.
Điều gì gây nên sự lo lắng ở những người mắc bệnh celiac và nhạy cảm với gluten?
Các nhà nghiên cứu vẫn chưa rõ cơ chế thực sự của hiện tượng này. Tuy nhiên, nó có thể là sự phổi hợp của các nguyên nhân, bao gồm phản ứng lo lắng cho sự cần thiết phải tuân theo chế độ ăn không gluten, và có thể do ảnh hưởng trực tiếp của gluten lên não bộ.
Lo lắng phổ biến ở bệnh nhân celiac khi mới được chẩn đoán
Một vài nghiên cứu đã khẳng định mức độ lo lắng cao ở những người mắc bệnh celiac khi họ lần đầu được chẩn đoán.
Theo như một nghiên cứu, cả trạng thái lo lắng (một tuýp lo lắng tạm thời và tham gia đáp ứng của hệ thần kinh tự chủ cấp cao) tăng lên ở những người vừa được biết họ mắc bệnh celiac.
Nghiên cứu này thực hiện trên 35 bệnh nhân mắc celiac và so sánh với 59 người thuộc nhóm đối chứng, cho thấy mức độ trạng thái lo lắng ở 71% bệnh nhân mắc celiac, nhưng chỉ 24% ở những người nhóm chứng. Nó cũng cho thấy 26% những người được chẩn đoán mới cho thấy lo lắng như một nét tính cách so với 15% những người ở nhóm chứng (tuy nhiên sự khác nhau này không có ý nghĩa thống kê, có nghĩa là nó có thể do may mắn, vô tình).
Sau một năm theo chế độ ăn không gluten, mức độ lo lắng ở những bệnh nhân celiac giảm đáng kể. Tuy nhiên 26% vẫn bị ảnh hưởng bởi trạng thái lo lắng và 17% vẫn cho thấy sự lo lắng trong tính cách. Các tác giả ghi chú rằng sự giảm này không có ý nghĩa thống kê, một lần nữa chỉ ra rằng nó có thể do sự may mắn
“Những kết quả này cho thấy sự lo lắng ở những bệnh nhân celiac nổi bật lên như sự phản ứng quá lên như một nét tính cách, có thể liên quan đến sự xuất hiện của những triệu chứng chính như đau bụng, tiêu chảy và giảm cân, thường ghi lại bởi bệnh nhân như một lí do cho công việc và các mối quan hệ không hiệu quả và nó có thể không phải bệnh đặc hiệu để khích lệ, nhưng hơn là những đặc điểm của bệnh mạn tính.”
Một nghiên cứu khác theo dõi mức độ lo lắng và trầm cảm ở 441 người mắc celiac theo chế độ ăn không gluten trong một năm. Nó cho thấy rối loạn lo lăng gần 71% những cá thể trong nghiên cứu, cao hơn đáng kể trong số 6% những cá thể trong nhóm chứng
Phụ nữ có nguy cơ cao hơn nam giới
Thú vị thay, sống một mình đi kèm với giảm nguy cơ mắc rối loạn lo lắng. Các tác giả xem xét vấn đề ăn không gluten trong phòng bếp chung và đối mặt với thành viên trong gia đình không ăn chế độ này có thể góp phần vào vấn đề tài chính và cá nhân, làm tăng nguy cơ rối loạn lo lắng.
Có một vài bằng chứng cho rằng bổ sung vitamin B có thể cải thiện tình trạng lo lắng. Một nghiên cứu thực hiện ở Thụy Điển cho thấy sự cải thiện trong sức khỏe và triệu chứng lo lăng, trầm cảm ở bệnh nhân celiac uống bổ sung acid folic và vitamin B12 và B6 trong 6 tháng.
Sự lo lắng, các triệu chứng thần kinh khác xảy ra thường xuyên ở những người nhạy cảm với gluten
Mặc dù các nhà nghiên cứu chỉ bắt đầu định nghĩa bệnh celiac không nhạy cảm với gluten, có nhiều bằng chứng cho rằng có một thành phần thần kinh quan trọng.
Bác sĩ Alessio Fasano cho rằng triệu chứng thần kinh như vết mờ não xảy ra ở khoảng 1/3 bệnh nhân được chẩn đoán nhạy cảm với gluten, tỉ lệ cao hơn ở bệnh celiac. Trầm cảm liên quan đến gluten và lo lắng xảy ra ở mức độ cao.
Không rõ ràng lí do vì sao- nghiên cứu về nhạy cảm gluten mới bắt đầu và nhiều bác sĩ không đồng ý với điều này. Tuy nhiên, bác sĩ Rodney Ford cho rằng gluten gây nguy hiểm trực tiếp cho hệ thần kinh, dẫn đến những triệu chứng được thẩy ở cả bệnh celiac và nhạy cảm với gluten, bao gồm lo lắng.
Làm thế nào để giảm lo lắng do gluten
Tin tốt cho những người mắc bệnh celiac hoặc nhạy cảm với gluten là, triệu chứng lo lăng dường như loại trừ khi bạn ăn chế độ không gluten. Tin xấu là, nhiều người vẫn thấy triệu chứng lo lắng khi họ ăn gluten, mặc dù những triệu chứng này chỉ thoáng qua.
Hiện nay, các nghiên cứu cho rằng nhiều người đấu tranh với mức độ lo lắng cao thậm chí khi họ ăn chế độ không gluten, có thể do căng thằng do duy trì chế độ ăn, đặc biệt khi ở chung với những người ăn gluten.
Nếu bạn đang trải qua mức độ lo lắng cao mặc dù ăn chế độ không gluten nghiêm ngặt, bạn nên nói chuyện với bác sĩ về điều này, bác sĩ có thể khuyến cáo bạn đến gặp bác sĩ tâm lí để điều trị và tư vấn thuốc để giảm triệu chứng này.
Với trẻ trên 5 tuổi, việc bổ sung vi chất vẫn vô cùng cần thiết, bởi đây là độ tuổi vàng để phát triển thể chất, trí tuệ và hình thành nền tảng sức khỏe lâu dài.
Botox (onabotulinumtoxinA) bắt đầu có hiệu lực trong vòng hai đến năm ngày sau khi bạn tiêm. Tuy nhiên, có thể mất đến vài tuần để bạn thấy được kết quả đầy đủ và mốc thời gian cho mỗi cá nhân khác nhau tùy thuộc vào một số yếu tố.
Cá mè từ lâu đã được biết đến như một loại thực phẩm quen thuộc của người Việt Nam. Không chỉ là nguyên liệu cho những món ăn dân dã, đậm đà, cá mè còn chứa nhiều lợi ích sức khỏe cho mọi lứa tuổi.
Trong bối cảnh các bệnh tim mạch ngày càng phổ biến và trẻ hóa, việc duy trì một lối sống lành mạnh, đặc biệt là chế độ ăn uống, đóng vai trò then chốt trong việc phòng ngừa cũng như cải thiện chất lượng sống cho người bệnh tim.
Bạn đã bao giờ tự hỏi: Có chế độ ăn uống nào có thể giúp phòng ngừa bệnh tật không? Các nhà khoa học đã phát hiện một chế độ ăn uống đơn giản nhưng mang lại hiệu quả bất ngờ giúp giảm nguy cơ ung thư, đái tháo đường và bệnh tim.
Mất thính lực được phân loại thành ba loại: dẫn truyền, thần kinh cảm giác và hỗn hợp (khi mất thính lực dẫn truyền và thần kinh cảm giác xảy ra đồng thời). Mất thính lực dẫn truyền liên quan đến vấn đề ở tai ngoài hoặc tai giữa, trong khi mất thính lực thần kinh cảm giác là do tổn thương ở tai trong.
Mùa thu là thời điểm cơ thể dễ phải đối mặt với nhiều thách thức do sự thay đổi của thời tiết và môi trường. Vậy, mùa thu nên bổ sung những loại vitamin nào?
Da đầu ngứa có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm thói quen gội đầu, chấy, bệnh vẩy nến, v.v.