Dinh dưỡng vừa đủ cho cơ thể khỏe đẹp
Vậy để có một phong cách ăn chuẩn và phù hợp với nhu cầu của lứa tuổi chúng ta cần nắm được các nguyên tắc vàng sau:
1. Xác định được nhu cầu về năng lượng của bản thân mình để vẫn đảm bảo đủ năng lượng cho cơ thể với những đặc điểm riêng của mình (cân nặng, chiều cao, lứa tuổi, công việc) mà lại không bị thừa hoặc thiếu dẫn đến lên hoặc sút cân. Việc xác định nhu cầu năng lượng cũng rất cần thiết cho cả người đang mập quá hoặc gầy quá. Vì với người gầy quá quan điểm trước đây cho rằng nếu ăn tăng hơn mức cần thiết thì sẽ giúp tăng cường cho việc lên cân, nhưng khoa học ngày nay đã cho thấy ở những người này việc ăn uống quá thừa thãi so với nhu cầu cơ thể sẽ rất tạo thành các chất bất thường gây hại trong chuyển hóa như sự quá tăng đường huyết, tăng mỡ máu, và tăng các sản phẩm carbon dioxide, và chúng ta biết rằng việc tăng quá mức bình thường những sản phẩm này sẽ rất hại cho sức khỏe. Nếu không tự xác định được hoặc đang ở mức rất kém cân đối thì nên đi khám chuyên khoa dinh dưỡng để được các chuyên gia dinh dưỡng tư vấn chế độ dinh dưỡng cần thiết.
2. Biết cách phân bố năng lượng giữa các bữa ăn hợp lý theo nhu cầu cơ thể: người mập và người bình thường vẫn nên giữ nguyên 3 bữa ăn/ngày, nhưng lựa chọn loại và số lượng thức ăn phải khác nhau (người mập nên ăn nhiều thực phẩm thấp năng lượng như rau củ). Người gầy cần ăn tối thiểu 4-5 bữa/ngày để giúp ăn được nhiều hơn và tăng năng lượng khẩu phần.
3. Biết cách lựa chọn và chế biến thực phẩm hợp lý phù hợp nhu cầu cơ thể:
Chế độ ăn đảm bảo đủ năng lượng trong khẩu phần, cân đối về tỉ lệ các chất sinh năng lượng (Glucid: Protid: Lipid), các vitamin và khoáng chất. Người trưởng thành và trẻ em đều cần ăn đủ các nhóm thực phẩm sau trong bữa ăn hàng ngày:
* Nhóm 1: Nhóm ngũ cốc: là nguồn năng lượng cao do có nhiều tinh bột. Lượng vitamin nhóm B nhiều ít tùy tỷ lệ xay xát, ngoài ra còn có một lượng protid đáng kể (giá trị không cao). Hầu như không có các vitamin C, A, D. Các đố ngọt (đường, bánh, kẹo ngọt); thuộc loại thức ăn không lợi cho sức khỏe, hầu như chỉ chứa glucid. Vì thế cần sử dụng hạn chế. Ngày nay cũng đã tìm thấy mối liên quan giữa tỷ lệ mắc bệnh tim mạch và thói quen ăn nhiều đường, vì thế cuộc sống ngày càng văn minh càng khuyến khích giảm loại thực phẩm này.
* Nhóm 2: Nhóm đạm: sữa, thịt, cá, trứng, đậu và chế phẩm: Là nguồn protid có giá trị cao, phospho, sắt và một lượng vitamin B đáng kể. Ngược lại nhóm này nghèo calci (trừ sữa), vitamin A và C. Sữa là một trong các thức ăn toàn diện nhất đứng về thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng là nguồn calci dễ đồng hóa nhất. Sữa còn có nhiều riboflavin và vitamin A nhưng chứa ít sắt và vitamin C.
Nói đến protein (đạm) người ta thường hay nghĩ đến thịt. Chúng ta đều biết tiêu hóa thịt thường đi đôi với quá trình thối rữa, tạo các chất thối rữa ở đại tràng và là những độc tố ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe. Mùi hôi nặng nề khi trung và đại tiện phản ảnh một phần hậu quả của hiện tượng thối rữa khi ăn nhiều thịt. Đặc biệt nếu lại bị táo bón, các chất độc này không được thải ra ngoài nhanh mà lại bị hấp thụ vào cơ thể, gây ra một loại nhiễm độc trường diễn rất có hại cho sức khỏe. Nên hạn chế ăn thịt, nhất là thịt mỡ, mà nên thay vào ăn cá vì cá có nhiều đạm quý dễ tiêu, ít gây thối rữa hơn thịt, lại có nhiều acid béo không no rất cần để phòng chứng cholesterol cao.
Trước đây có nhiều người cho rằng các hải sản như tôm, cua, trai, sò, tôm hùm có nhiều cholesterol nên thực phẩm này bị loại khỏi chế độ ăn của nhiều gia đình. Những thông tin khoa học mới đây cho thấy các hải sản trên đều an toàn về phương diện chất béo, nhất là khi chúng được nấu bằng cách hấp, luộc, nướng bỏ lò chứ không chiên trong chảo mỡ.
Phụ nữ nên ăn nhiều đạm nguồn thực vật - nhất là đậu phụ vì ít gây thối rữa, ít sản sinh ra các độc chất có khả năng gây ung thư đại trực tràng... Ngoài ra, các thức ăn nguồn thực vật còn có nhiều chất xơ. Các chất xơ trong thức ăn có tác dụng giữ cholesterol thừa trong ống tiêu hóa và sau đó thải ra theo phân. Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy sợi xơ trong thức ăn làm hạ cholesterol tự do trong máu.
* Nhóm 3: Các chất béo: là loại thực phẩm tương đối phiến diện về phương diện thành phần và giá trị dinh dưỡng: không có protid, gluxid và chất khoáng ngược lại chứa nhiều lipid do đó là nguồn năng lượng cao. Trong mỡ động vật có nhiều acid béo no, trong các dầu thực vật có nhiều acid béo chưa no. Khi phối hợp hợp lý bằng giảm mỡ động vật, tăng dầu thực vật chúng cung cấp vitamin A, các vitamin không tan trong chất béo và các axít béo chưa no cần thiết. Vì thể dầu mỡ vẫn rất cần thiết cho trẻ béo phì, ngày vẫn cần ăn 2 bữa xào rán ít dầu mỡ (tổng nhu cầu 4 thìa dầu mỡ 5ml/ngày).
* Nhóm 4 : Rau quả: Quả: các loại quả là nguồn chất khoáng quí, nhất là các yếu tố vi lượng, các vitamin (chủ yếu có vitamin C, tiền vitamin A và một số vitamin nhóm B). Đó là thức ăn gây kiềm. Đáng chú ý là lượng vitamin C trong quả không bị hao hụt do chế biến.
Rau quả là nguồn cung cấp vitamin và chất khoáng
Rau là nhóm nghèo năng lượng. Khi lựa chọn thích hợp chúng cung cấp vitamin A (dưới dạng caroten) và C, nhiều chất xơ và các yếu tố gây kiềm. Trong các loaị rau một số là nguồn vitamin C quan trọng (cà chua, cần tây, rau ngót, su hào, rau dền, rau muống) một số khác là nguồn caroten quí (cà rốt, hành lá, hẹ, rau muống, rau diếp, sà lách….)
Để đảm bảo vệ sinh thực phẩm và dưỡng chất đối với trẻ nhỏ nên dành thời gian nấu cháo/bột với các thực phẩm tươi hàng ngày. Rau xanh tươi cần cho sau cùng khi các thành phần bữa bột cháo đã chín, để rau không bị sôi quá lâu vẫn còn nhiều vitamin.
Như vậy, chúng ta thấy không có loại thức ăn nào là toàn diện cả. Khẩu phần có giá trị dinh dưỡng cao và giúp tăng cường sức khỏe chỉ khi trong thành phần có đủ mặt các nhóm ở tỷ lệ thích hợp. Đó là nguyên tắc cơ bản của dinh dưỡng hợp lý.
Mong rằng với những kiến thức trình bày ở đây, mỗi người chúng ta sẽ rút ra được những điều bổ ích giúp hoàn chỉnh phong cách ăn uống để có được một cơ thể khỏe đẹp thực sự.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: 10 nguyên tắc để có một bữa ăn lành mạnh
Do các loại thuốc Tây y điều trị bệnh Parkinson thường đi kèm với tác dụng phụ và nguy cơ “nhờn thuốc” khi dùng lâu dài, nhiều người tìm tới các phương pháp Đông y với hy vọng các loại thảo dược tự nhiên sẽ an toàn hơn với cơ thể.
Khi bước vào giai đoạn lão hóa, cơ thể con người trải qua nhiều thay đổi sinh lý, suy giảm chức năng của hệ cơ xương khớp và dễ mắc phải các bệnh lý về xương khớp, đặc biệt là trong mùa đông lạnh
Tức giận là một cảm xúc bình thường mà ai cũng sẽ trải qua, bởi hiếm ai có thể giữ được bình tĩnh khi bị tấn công, xúc phạm, phản bội hay thất bại... Tuy nhiên, tức giận quá thường xuyên hoặc kéo dài có thể gây ra nhiều vấn đề đối với sức khỏe.
Mùa đông đến đi kèm với sự thay đổi nhiệt độ đột ngột, không khí hanh khô và độ ẩm giảm. Những yếu tố này gây nên các bệnh về đường hô hấp, đặc biệt là ở trẻ nhỏ, người cao tuổi và những người có hệ miễn dịch yếu. Các bệnh lý đường hô hấp không chỉ gây khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống mà còn có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời.
Đau chân là vấn đề phổ biến ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của nhiều người. Cùng tìm hiểu 9 phương pháp đơn giản, hiệu quả để chữa đau chân tại nhà. Áp dụng đúng cách, bạn có thể giảm đau, cải thiện lưu thông máu và tăng cường sức khỏe cho đôi chân của mình.
Thật khó khăn khi bạn phải đối mặt với bệnh tiêu chảy, nhất là khi bạn đang phải cho con bú. Trong bài viết này, Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ chia sẻ một số biện pháp khắc phục tự nhiên để điều trị bệnh tiêu chảy cho các bà mẹ vẫn đang trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ.
Ăn rau đầu tiên trong bữa ăn có tác dụng thế nào với người bệnh đái tháo đường? Thứ tự các ăn các món trong bữa ăn của người bệnh đái tháo đường có gì đặc biệt? Nhân Ngày thế giới phòng chống đái tháo đường 14/11, cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Ngày Trẻ em Thế giới là dịp để chúng ta cùng nhau tôn vinh và bảo vệ thế hệ tương lai của đất nước. Trong bối cảnh cuộc sống hiện đại với nhiều thay đổi, việc chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ em càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.