Một khi nghi ngờ lâm sàng và sinh thiết thận được tiến hành và chẩn đoán xác định bạn bị viêm thân lupus, bác sĩ thận tiết niệu và bạn sẽ đối mặt với nhiều lựa chọn điều trị khác nhau để giảm tối đa tổn thương thận và ngăn chặn suy thận. Ở đây chúng tôi đưa ra cái nhìn tổng thể về những lựa chọn này.
Không phải tất cả những dạng viêm thận lupus đều dẫn đến suy thận
Theo truyền thống, có 6 loại bệnh thận lupus (mặc dù nhiều bác sĩ thận tiết niệu vẫn tranh luận để thay đổi điều này). Nói cách khác, khi lupus lan rộng đến thận, bác sĩ sẽ nhóm nó vào một hoặc nhiều hơn trong 6 nhóm chẩn đoán phân biệt.
Những nhóm này có những tiên lượng đi kèm và những cách tiếp cận khác nhau về điều trị.
Do lupus là một bệnh tự miễn, thuốc để ức chế hệ miễn dịch sẽ đóng vai trò nhất định trong điều trị những dạng viêm thận lupus trầm trọng. Tuy nhiên, những thuốc này có thể không cần thiết cho tất cả những dạng viêm thận lupus.
Do vậy, chúng ta có thuốc không ức chế hệ miễn dịch ưu tiên mà hầu hết bệnh nhân viêm thận lupus nên dùng, cho dù mắc bệnh viêm thận lupus thuộc nhóm nào ( và có thể cần sử dụng thêm chất ức chế miễn dịch nếu cần).
Thuốc không ức chế hệ miễn dịch: chẹn renin angiotensin
Từ khi phát hiện trong nọc rắn, thuốc chẹn Renin- Angiotensin đã thay đổi việc điều trị huyết áp cao, suy tim và bệnh thận. Chúng có vai trò lớn trong điều trị bệnh viêm thận lupus. Do nhiều bệnh nhân bị viêm thận lupus mất nhiều protein trong nước tiểu, thuốc chẹn Renin- Angiotesin rất hữu ích trong hiệu quả chống protein niệu. Rất khó để giải thích chi tiết cơ chế của thuốc, nhưng một trong những ảnh hưởng chính là giảm áp lực trong lọc cầu thận. Điều này dẫn đến giảm lượng protein mất trong nước tiểu và do đó cải thiện những kết quả lâu dài.
Bệnh viêm thận lupus có thể gây nên nhiều biến chứng:
Thuốc không ức chế hệ miễn dịch
Nếu sinh thiết thận cho thấy dạng viêm thận lupus hoạt động và nghiêm trọng (đôi khi còn gọi là viêm thận lupus tiến triển), thuốc ức chế miễn có thể sẽ cần thiết. Một số thuốc tương tự cũng được sử dụng để chống đào thải ở bệnh nhân được cấy ghép thận.
Thuốc ức chế hệ miễn dịch phổ biến nhất là steroid. Chúng được sử dụng phối hợp với một phác đồ phức tạp với những thuốc khác mà hầ hết mọi người chưa từng nghe đến. Những thuốc này bao gồm mycophenolate mofetil, cyclophosphamide, cyclosporine,…
Nếu tất cả đều không có tác dụng?
Trong trường hợp xấu nhất, bệnh nhân có thể không có sự tiến triển với những thuốc trên, hoặc ở trong tình trạng thận đang bị tổn thương không hồi phục/sẹo hóa trong thời gian bệnh được chẩn đoán. Trong trường hợp này, thì chuẩn bị thay thận, bên cạnh lọc thân hoặc cấy ghép thận có thể cần được thực hiện. Viêm thận lupus không nhất thiết kết thúc bằng việc cấy ghép thận, nhưng hầu hết chương trình cấy ghép sẽ được đưa ra nếu bệnh ở dạng không hoạt động trước khi cấy ghép.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?