Viêm khớp vẩy nến là một bệnh có thể gây đau, cứng khớp và sưng phù quanh khớp, ngoài việc xuất hiện các mảng da đỏ, cứng như trong bệnh vẩy nến. Đây là căn bệnh có những đợt bùng phát bất ngờ, giữa các đợt bùng phát là khoảng thời gian thuyên giảm của bệnh, khi mà các triệu chứng biểu hiện không rõ rệt hoặc không làm bạn khó chịu.
Nếu bạn bị viêm khớp vẩy nến, thì rất có thể, các biện pháp điều trị chỉ có tác dụng với bạn trong những thời điểm nhất định. Một số biện pháp điều trị viêm khớp vẩy nến có thể đã có tác dụng trong một thời gian dài, bỗng nhiên sẽ không còn tác dụng nữa và cần được điều chỉnh, hoặc thay đổi hoàn toàn nếu bệnh tái phát, hoặc xuất hiện thêm các triệu chứng mới.
Trong suốt quá trình khám và theo dõi bệnh định kỳ, bác sỹ sẽ kiểm tra xem liệu các triệu chứng bệnh của bạn có diễn biến nặng hơn hay không, hoặc có các đợt bùng phát bệnh hay không, bằng việc kiểm tra mức độ sưng và cứng khớp, tình trạng viêm tại các vị trí xương kết nối với cơ và da bạn có bị kích ứng hay không. Nhưng ngoài những dấu hiệu này, có những dấu hiệu khác, khó nhận thấy hơn, cũng có thể cho tháy, bạn cần phải thay đổi phương pháp điều trị bệnh viêm khớp vẩy nến. Dưới đây là 7 dấu hiệu như vậy:
Móng tay và móng chân bị tổn thương
Có hơn 80% số người bị viêm khớp vẩy nến cũng sẽ bị vẩy nến tại móng, theo thống kê của Hiệp hội Vẩy nến quốc gia Hoa Kỳ. Các triệu chứng của bệnh vẩy nến tại móng bao gồm móng tay bị rỗ (móng tay xuất hiện các vết lõm nhỏ), móng tay bị tách ra khỏi phần da ở dưới, và đổi màu móng.
Nếu tất cả các triệu chứng khác không xuất hiện, nhưng bạn bất ngờ bị rỗ móng tay hoặc có các triệu chứng khác tại móng, thì bạn nên tới gặp bác sỹ để tiến thành một vài thay đổi trong kế hoạch điều trị viêm khớp vẩy nến.
Đau lưng
Nếu bạn thường xuyên bị cứng vùng lưng kéo dài, thì bạn có thể sẽ cần thay đổi phương pháp điều trị. Trong bệnh viêm khớp vẩy nến, đau lưng có thể là dấu hiệu của tình trạng viêm âm ỉ trên toàn cơ thể, và là dấu hiệu cho thấy bệnh viêm khớp vẩy nến của bạn đã có những thay đổi mới.
Sưng phù ngón tay hoặc ngón chân
Sưng phù nóng tay hoặc ngón chân, đi kèm với cảm giác đau, thường sẽ xảy ra trong các đợt bùng phát của bệnh viêm khớp vẩy nến. Sưng phù ngón cũng có thể là dấu hiệu cho thấy bệnh vẫn chưa được điều trị triệt để, mặc dù bạn vẫn đang tuân thủ quá trình điều trị của bác sỹ. Do vậy, rất có thể, cần có những thay đổi nhất định trong kế hoạch điều trị.
Đau mắt
Viêm khớp vẩy nến sẽ làm tăng nguy cơ viêm tại mắt, còn được biết đến với tên gọi là viêm màng bồ đào. Triệu chứng của viêm màng bồ đao bao gồm đau vùng mắt, đỏ mắt và nhìn mờ. Nếu bạn phát triển bệnh viêm màng bồ đào, thì điều đó có nghĩa là bạn cần tiến hành một phương pháp điều trị viêm khớp vẩy nến nặng hơn để làm giảm tình trạng viêm của cơ thể.
Các vấn đề về tiêu hóa
Những người bị vẩy nến cũng sẽ có nguy cơ mắc bệnh viêm ruột cao hơn. Nếu bạn bị tiêu chảy kéo dài hoặc thấy máu lẫn trong phân của mình, thì đó có thể là dấu hiệu cho thấy tình trạng viêm đang không được kiểm soát tốt.
Tổn thương khớp thông qua phim chụp X quang
Đôi khi, ở những bệnh nhân bị viêm khớp vẩy nến, thì tình trạng viêm chỉ ở mức độ nhẹ và không biểu hiện ra triệu chứng bệnh. Tuy nhiên, thường xuyên chụp X quang có thể cho thấy các tổn thương khớp, từ đó giúp bác sỹ biếtn được rằng, bệnh đang tiến triển nặng hơn và cần phải tăng cường điều trị.
Kết luận
Nếu bạn cảm thấy tốt trong vòng vài tháng thì điều đó có nghĩa là bạn đang trong giai đoạn thuyên giảm bệnh, và điều này có thể sẽ khiến bạn lơ là điều trị. Các bác sỹ thường sẽ đợi từ 6 tháng – 1 năm trước khi ngừng hẳn điều trị. Tuy nhiên, quyết định có ngừng điều trị hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc bạn có thể kiểm soát được bệnh một cách nhanh chóng ngay từ đầu hay không.
Trước khi đưa ra quyết định về việc thay đổi điều trị, bác sỹ có thể sẽ theo dõi xu hướng phát triển các triệu chứng bệnh của bạn mỗi 3 tháng mội lần. Và nếu bạn có thể kiểm soát tốt bệnh trong vòng 1 năm nhưng bỗng nhiên cơn đau lại diễn biến nặng hơn, thì điều đó là một bằng chứng rõ ràng cho thấy các loại thuốc điều trị đang dùng đang mất đi tác dụng.
Bạn có biết Vitamin D rất quan trọng với sức khoẻ nhưng nhiều người lại thiếu hụt? Hãy cùng tìm hiểu những loại thực phẩm chứa hàm lượng vitamin D cao nhất, giúp bạn dễ dàng bổ sung vào chế độ ăn hàng ngày.
Viêm loét đại tràng là một căn bệnh mạn tính, nhưng bạn có thể kiểm soát được và chung sống với căn bệnh này. Bác sĩ sẽ làm việc với bạn để tìm ra phương pháp điều trị giúp kiểm soát các triệu chứng và ngăn ngừa chúng tái phát.
Vitamin K rất cần thiết cho trẻ sơ sinh, và tình trạng thiếu hụt vitamin K ở trẻ sơ sinh xảy ra phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Vậy trong giai đoạn này, nên bổ sung vitamin K dưới dạng K1 hay K2 cho trẻ? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Việc ngâm mình trong một vùng nước tự nhiên ấm áp, với tiếng chim hót xung quanh và không khí trong lành bên ngoài có thể giúp bạn cảm thấy thư giãn. Đôi khi một số người còn tin rằng tắm khoáng nóng giúp giảm cân. Vậy điều đó có đúng không? Cùng tìm hiểu câu trả lời và khám phá các lợi ích sức khỏe có thể có khi tắm khoáng nóng cùng Bác sĩ Dinh dưỡng VIAM nhé.
Vitamin D có những vai trò rất quan trọng trọng việc hấp thu canxi, tham gia vào nhiều chức năng khác như tạo xương, miễn dịch, tăng trưởng. Việc thiếu hay thừa vitamin D đều để lại những ảnh hưởng tới sức khỏe của trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ sơ sinh. Bổ sung vitamin D là điều được nhiều chuyên gia y tế khuyến cáo, tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ - trong đó vitamin D3 là dạng bổ sung được khuyến nghị tốt nhất.
Theo Tiến sĩ, bác sĩ Trương Hồng Sơn, Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam, khi trời mưa nhiều, độ ẩm tăng cao sẽ tạo môi trường thuận lợi cho các vi khuẩn sinh sôi, do đó thức ăn dễ bị ôi, thiu, mốc và sinh ra độc tố gây ngộ độc thực phẩm.
Vaccine Qdenga đang được khuyến nghị tiêm cho trẻ em trên 4 tuổi và người lớn để phòng chống sốt xuất huyết, cùng tìm hiểu về loại vaccine này qua bài viết sau đây.
Vitamin D (còn được gọi là calciferol) là một loại vitamin tan trong dầu, có mặt trong một số thực phẩm tự nhiên. Vitamin D cũng được sản xuất nội sinh khi tia cực tím (UV) từ ánh sáng mặt trời chiếu vào da và kích thích quá trình tổng hợp vitamin D.