Chuyển mùa, trẻ dễ mắc sốt virút
Sốt virút là gì?
Sốt virút là hiện tượng sốt do cơ thể phản ứng lại khi virút xâm nhập cơ thể. Sốt cao hay trung bình, nhẹ còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó loại virút và độc lực chủ chúng mạnh hay yếu và sức đề kháng của cơ thể trẻ tốt hay không là quan trọng nhất. Với một cơ thể bình thường khi bị virút tấn công là xuất hiện sốt, gọi là sốt virút.
Loại virút nào hay gặp nhất?
Đó là virút Myxo, virút Coxackie, virút Entero, virút sởi, virút thủy đậu, virút viêm não Nhật Bản, virút Dengue (sốt xuất huyết)... Tùy từng loại virút, chúng gây nên các bệnh ở các cơ quan khác nhau (viêm phổi, viêm não, tiêu chảy, thủy đậu, sốt xuất huyết…), thường gặp là gây bệnh đường hô hấp. Sốt virút có thể lây từ người này sang người khác, đặc biệt là nhiễm virút qua đường hô hấp, tiêu hóa... có thể gây thành dịch.
Bệnh bao giờ cũng có sốt, đặc biệt là sốt cao liên tục trong ngày, hoặc sốt về chiều, đêm. Thân nhiệt có thể lên tới 39 - 410C, một số trẻ có thể bị co giật, nhất là trẻ dưới 36 tháng/tuổi. Một số trường hợp trẻ chỉ sốt nhẹ, nhất là trẻ suy dinh dưỡng, còi xương. Trẻ mệt mỏi, đau đầu, kém chịu chơi, ăn ít, ngủ ít, quấy khóc nhiều. Tuy nhiên, một số trường hợp trẻ bị đau đầu nhưng vẫn tỉnh táo, chơi nghịch được.
Ở một số trường hợp có thể có nổi ban sau 2 - 3 ngày bị sốt (thông thường khi ban xuất hiện, trẻ giảm sốt hơn). Có thể ho, chảy nước mũi do viêm long đường hô hấp hoặc kèm viêm theo kết mạc mắt (chảy nước mắt, có thể đỏ, có dử mắt). Một số trường hợp có rối loạn tiêu hóa (nôn nhiều lần, nhất là sau bữa ăn). Ngoài ra, trẻ có thể có viêm hạch ở vùng đầu, mặt, cổ. Hạch thường sưng to, gây đau làm cho trẻ rất khó chịu nên càng quấy khóc, ngủ ít
Có gây biến chứng không?
Thông thường, trẻ bị sốt virút sau khoảng một tuần điều trị có thể khỏi. Tuy nhiên, trong trường hợp không phát hiện sớm và điều trị kịp thời, bệnh có thể gây ra những biến chứng về hô hấp (viêm thanh quản, viêm tiểu phế quản, viêm phổi), biến chứng viêm cơ tim có thể xảy ra và đáng ngại nhất là gây biến chứng não (trẻ bị co giật, hôn mê và nếu khỏi có thể để lại chứng nặng nề). Cần lưu ý, đối với biến chứng viêm phổi là biến chứng nặng, nguy hiểm, đặc biệt là bệnh có thể bùng phát thành dịch với diễn biến phức tạp.
Chẩn đoán
Chẩn đoán sốt virút không đơn giản như một số người suy nghĩ, bởi vì, trẻ sốt với nhiều nguyên nhân khác nhau, cận kề nhất là trẻ viêm nhiễm vi khuẩn cũng sốt, thậm chí sốt cao. Vì vậy, trong thực tế ngay tại phòng khám bệnh cho dù là phòng khám bệnh của bệnh viện lớn cũng khó mà loại trừ ngay được các nguyên nhân gây sốt khác để khẳng định là sốt do virút, trừ khi có đủ các loại tét (que thử) chẩn đoán nhanh. Người bác sĩ khám bệnh sẽ dựa vào nhiều yếu tố để nghĩ đến có phải sốt virút hay không trong đó có kinh nghiệm của bản thân và yếu tố dịch tễ học.
Xử trí khi trẻ em sốt như thế nào?
Với trẻ sốt và đặc biệt sốt cao cần cho trẻ đến cơ sở y tế càng sớm càng tốt. Trong khi chờ đợi đưa trẻ đi khám bệnh, nên làm giảm thân nhiệt cho trẻ bằng cách chườm khăn ấm (chườm mát): nhiệt độ của nước khi nhúng khăn vào phải thấp hơn nhiệt độ của trẻ khoảng 20C. Nên chườm ở trán, nách, bẹn và mặc quần áo mỏng, cởi bớt áo, quần và tã lót và cho trẻ nằm ở nơi thoáng mát (không nên cho trẻ nằm phòng có máy lạnh với nhiệt độ lạnh quá hoặc không cho quạt xoáy vào người trẻ). Cần lưu ý là không chườm nước đá hoặc nước lạnh cho trẻ, bởi vì sẽ hạn chế sự tỏa nhiệt của trẻ, không hạ thân nhiệt được. Khi trẻ sốt cao trên 380C, nếu chườm mát mà thân nhiệt không giảm, nên cho trẻ uống thuốc hạ nhiệt hoặc đặt thuốc hạ nhiệt loại đầu đạn vào hậu môn cho trẻ. Loại paracetamol đơn chất được khuyến cáo dùng cho trẻ khi sốt cao, liều lượng tính theo lứa tuổi (từ < 3 tháng/tuổi dùng 40mg, từ >3 - 11 tháng /tuổi dùng 80mg; từ 12 - 24 tháng/tuổi dùng 120mg. Trẻ trên 24 tháng/ tuổi dùng 10mg cho một cân nặng của trẻ). Nếu trẻ còn bú mẹ, cho trẻ bú bình thường, tốt hơn là tăng số lần cho bú và tăng thời gian cho trẻ bú. Cần cho trẻ ăn đủ chất dinh dưỡng, thức ăn nhuyễn, lỏng, dễ tiêu. Cần cho trẻ uống nhiều nước, loại nước tốt nhất là dung dịch 0rêzol (ORS). Với trẻ em nên dùng loại gói nhỏ 5,63g/ gói pha vào 200ml nước đã đun sôi, để nguội, lắc đều cho trẻ uống. Trẻ nhũ nhi, uống 50ml/lần, ngày cho uống khoảng 2 - 3 lần; trẻ trên 2 - 6 tuổi uống 100ml/ lần, ngày cho uống 2 - 3 lần; trẻ trên 6 - 12 tuổi cho uống mỗi lần khoảng 150 ml, ngày cho uống 2 - 3 lần. Ngoài ra nên cho trẻ uống thêm nước cam, nước chanh tươi. Cần cần lưu ý là không được truyền dịch tại gia đình hoặc các phòng khám tư nhân không có đầy đủ trang thiết bị, thuốc cấp cứu để xử trí khi truyền dịch bị sốc. Không tự động dùng kháng sinh.
Lời khuyên của thầy thuốc
![]() Khi nghi ngờ trẻ bị sốt virút cần cách ly trẻ với các trẻ lành (cho trẻ nghỉ học không nên để trẻ đến lớp; trong gia đình không cho trẻ lành tiếp xúc với trẻ đang bị bệnh). Để không mắc sốt virút cần cho trẻ tiêm phòng vắcxin đúng quy định và theo khuyến cáo của ngành y tế, bởi vì hầu hết các bệnh sốt do virút như thủy đậu, viêm não Nhật Bản B, sởi, Rubela… đã có vắcxin phòng bệnh hữu hiệu. Khoa học đã chứng minh rằng, tiêm vắcxin phòng bệnh là biện pháp phòng bệnh sốt virút hữu hiệu nhất.
|
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.
Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.
Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?