Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

"Chuyện ấy" bằng miệng và những điều ít người biết

Không có nguy cơ mang thai khi quan hệ tình dục bằng miệng, nhưng bạn có nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

Mọi tiếp xúc da kề da với bộ phận sinh dục đều có thể lây lan các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Điều tương tự cũng xảy ra khi tiếp xúc với dịch tiết âm đạo, dương vật hoặc hậu môn.

Bác sĩ sản phụ khoa Lê Thị Kim Dung (Hà Nội) cho biết, bệnh lây truyền qua đường tình dục là những bệnh có thể lây từ bạn tình qua tinh dịch hoặc dịch tiết âm đạo như HIV, lậu, giang mai... Quan hệ bằng đường miệng cũng có khả năng lây truyền các bệnh qua đường tình dục như quan hệ bằng đường âm đạo hay đường hậu môn. Lý do là các bệnh này chủ yếu lây qua những chỗ bị xây xước.

Nhiều bạn trẻ ngày nay khi quan hệ chỉ chăm chăm quan tâm đến chuyện tránh thai mà không chú ý nhiều đến việc tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Thực tế, quan hệ không sử dụng bao cao su dù bằng đường nào cũng có thể bị truyền bệnh, thậm chí là HIV.

Chuyện ấy bằng miệng và những điều ít người biết - 1

Quan hệ tình dục bằng miệng cũng lây truyền một số bệnh lây truyền qua đường tình dục cả ở nam và nữ.

(Ảnh minh họa: Bebodywise)

Bác sĩ từng gặp bệnh nhân nữ đi khám vì họng sưng đỏ, mưng mủ tưởng viêm họng song không ngờ lại mắc bệnh lậu. Thậm chí không ít trường hợp mắc lậu nhưng bị chẩn đoán nhầm thành viêm họng. Lý do vì rất ít người, thậm chí là bác sĩ nghĩ đến bệnh lậu khi thấy họng sưng đỏ, mưng mủ, trừ khi làm xét nghiệm.

Dưới đây là các bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể lây truyền qua quan hệ tình dục bằng miệng:

Chlamydia

Chlamydia là bệnh do vi khuẩn chlamydia trachomatis gây ra. Tại Mỹ, chlamydia được báo cáo thường xuyên hơn bất kỳ bệnh lây truyền qua đường tình dục do vi khuẩn nào khác.

Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) Mỹ, mặc dù chlamydia có thể lây truyền qua quan hệ tình dục bằng miệng, nhưng nó có nhiều khả năng lây truyền qua quan hệ tình dục qua đường hậu môn hoặc âm đạo.

Chlamydia có thể ảnh hưởng đến: họng, bộ phận sinh dục, đường tiết niệu, trực tràng

Hầu hết chlamydia ảnh hưởng đến cổ họng không gây ra triệu chứng. Khi các triệu chứng xuất hiện, chúng có thể bao gồm đau họng. Chlamydia không phải là bệnh kéo dài suốt đời và có thể chữa khỏi bằng thuốc kháng sinh phù hợp.

Bệnh lậu

Lậu là một bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến do vi khuẩn neisseria gonorrhoeae gây ra. CDC Mỹ ước tính rằng có khoảng 1,14 triệu trường hợp mắc bệnh lậu mới mỗi năm, với khoảng một nửa ảnh hưởng đến những người từ 15 đến 24 tuổi.

Cả bệnh lậu và chlamydia đều có thể lây truyền qua quan hệ tình dục bằng miệng. Nhưng theo CDC, những rủi ro chính xác rất khó xác định. Những người quan hệ tình dục bằng miệng cũng có thể quan hệ tình dục qua đường âm đạo hoặc hậu môn, điều này có thể gây khó khăn cho việc xác định hoạt động nào gây ra nhiễm trùng.

Bệnh lậu có thể ảnh hưởng đến: họng, bộ phận sinh dục, đường tiết niệu, trực tràng.

Giống như chlamydia, bệnh lậu ở cổ họng thường không có bất kỳ triệu chứng nào. Nếu có các triệu chứng có xu hướng xuất hiện khoảng 1 tuần sau khi tiếp xúc và có thể bao gồm đau họng.

Bệnh lậu có thể được chữa khỏi bằng thuốc kháng sinh phù hợp. Tuy nhiên, các báo cáo về bệnh lậu kháng thuốc ở Mỹ và trên toàn thế giới đã gia tăng.

Giang mai

Theo Healthline, giang mai là một bệnh lây truyền qua đường tình dục do vi khuẩn treponema pallidum gây ra. Nó không phổ biến như các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác.

Bệnh giang mai có thể ảnh hưởng đến: miệng và môi, bộ phận sinh dục, hậu môn, trực tràng. Bệnh giang mai có thể được chữa khỏi bằng kháng sinh phù hợp.

Nếu không điều trị, tình trạng này sẽ vẫn còn trong cơ thể bạn, có thể ảnh hưởng đến mạch máu và hệ thần kinh. Bệnh giang mai có thể gây ra các biến chứng sức khỏe nghiêm trọng, bao gồm tổn thương cơ quan và hậu quả nghiêm trọng về thần kinh.

Một số người không có triệu chứng gì nhưng những triệu chứng thường gặp nhất gồm: sưng hoặc u không đau ở môi, miệng, họng, da, vùng sinh dục hoặc hậu môn; phát ban ở thân trên, lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân; các triệu chứng như cảm cúm.

HSV-1

Virus herpes simplex loại 1 (HSV-1) chủ yếu lây truyền qua tiếp xúc miệng với miệng hoặc miệng với bộ phận sinh dục. Nó có thể gây ra mụn rộp ở miệng, sinh dục và hậu môn. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), HSV-1 ảnh hưởng đến khoảng 3,7 tỷ người dưới 50 tuổi trên khắp thế giới.

HSV-1 có thể ảnh hưởng đến: môi, miệng, họng, bộ phận sinh dục, trực tràng, hậu môn.

Các triệu chứng của mụn rộp miệng bao gồm mụn nước hoặc vết loét. Chúng có thể xuất hiện trên miệng, môi và cổ họng.

HSV-1 có thể lây truyền hoặc lây nhiễm ngay cả khi không có triệu chứng. Nó không thể chữa khỏi, nhưng điều trị bằng thuốc kháng virus có thể dẫn đến ít đợt bùng phát hơn và giúp giảm bớt các triệu chứng của bạn.

HSV-2

Virus herpes simplex loại 2 (HSV-2) lây truyền chủ yếu qua quan hệ tình dục qua đường âm đạo hoặc hậu môn. Nó có thể gây mụn rộp miệng, sinh dục hoặc hậu môn. Theo WHO, ước tính HSV-2 ảnh hưởng đến khoảng 491 triệu người từ 15 đến 49 tuổi trên khắp thế giới.

Giống như HSV-1, HSV-2 có thể lây truyền qua quan hệ tình dục bằng miệng.

Các triệu chứng của HSV-2 ở miệng cũng giống như HSV-1 ở miệng. Bạn có thể nhận thấy vết phồng rộp hoặc vết loét trên miệng, môi hoặc lưỡi của mình, mặc dù có thể nhiễm virus và không bao giờ có triệu chứng.

HSV-2 có thể bị nhiễm hoặc lây truyền ngay cả khi không có triệu chứng. Mặc dù không có cách chữa khỏi HSV-2, nhưng việc điều trị có thể giúp giảm bớt các triệu chứng của bạn và dẫn đến ít bùng phát mụn rộp hơn.

HPV

Virus gây u nhú ở người (HPV) là một bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến. HPV có thể lây truyền qua quan hệ tình dục bằng miệng, âm đạo và hậu môn. HPV ảnh hưởng đến: miệng, họng, bộ phận sinh dục, cổ tử cung, hậu môn, trực tràng. Trong một số trường hợp, HPV không có triệu chứng.

Một số loại HPV có thể gây u nhú thanh quản hoặc đường hô hấp, ảnh hưởng đến miệng và cổ họng. Các triệu chứng bao gồm: mụn cóc trong cổ họng, thay đổi giọng nói, khó nói, hụt hơi.

Một số loại HPV khác ảnh hưởng đến miệng và cổ họng nhưng không gây ra mụn cóc. Tuy nhiên, chúng có thể gây ung thư đầu hoặc cổ.

Mặc dù HPV không có cách chữa trị, nhưng phần lớn các trường hợp lây truyền HPV đều được cơ thể tự loại bỏ mà không gây ra các biến chứng khác. Phẫu thuật và các phương pháp điều trị khác có thể loại bỏ mụn cóc ở miệng và cổ họng, nhưng chúng có thể quay trở lại ngay cả khi điều trị.

HIV

HIV thường lây truyền qua quan hệ tình dục qua đường âm đạo và hậu môn. Theo CDC Mỹ, nguy cơ lây truyền hoặc nhiễm HIV qua quan hệ tình dục bằng miệng là cực kỳ thấp.

Nếu bạn nhiễm HIV, bạn có thể không có bất kỳ triệu chứng nào trong nhiều năm. Tuy nhiên, virus ban đầu có thể gây ra các triệu chứng giống như cúm.

HIV không thể chữa khỏi. Tuy nhiên, bạn có thể quản lý hiệu quả tình trạng này bằng thuốc kháng virus.

Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: “Yêu” bằng miệng nguy hiểm thế nào?

Hà An - Theo Dantri
Bình luận
Tin mới
  • 18/08/2025

    Sức khỏe tinh thần người cao tuổi tại Việt Nam: thực trạng, thách thức và giải pháp hướng tới một xã hội già hóa khỏe mạnh

    Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.

  • 18/08/2025

    Tiêu chảy mùa mưa lũ: Nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng tránh

    Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.

  • 17/08/2025

    8 nguyên nhân gây ra tình trạng răng khấp khểnh

    Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.

  • 16/08/2025

    Tác động của mạng xã hội đến sức khỏe tinh thần giới trẻ

    Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.

  • 16/08/2025

    Tầm quan trọng của việc tiêm chủng cho trẻ em và người lớn

    Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.

  • 15/08/2025

    Ăn bao nhiêu rau quả mỗi ngày là đủ?

    Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?

  • 15/08/2025

    Người cao tuổi vẫn có thể bị suy dinh dưỡng?

    Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.

  • 15/08/2025

    Báo cáo trường hợp: Sốc nhiễm trùng kèm viêm da, cân cơ hoại tử do nhiễm Vibrio vulnificus qua vết thương ở da

    Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.

Xem thêm