
Ngày nay, phương pháp ăn dặm bé chỉ huy được nhiều phụ huynh áp dụng.
Theo nghiên cứu của Đại học Colorado (Mỹ), chế độ ăn của trẻ ăn dặm tự chỉ huy (baby-led weaning) và trẻ được bón đồ ăn mềm từng thìa cung cấp lượng calo tương đương. Đây là dữ liệu thu thập từ thói quen ăn uống của 70 em bé 5 tháng tuổi khỏe mạnh sống ở thành phố Denver.
Theo đó, nhóm nghiên cứu đề nghị phụ huynh theo dõi và báo cáo chế độ ăn uống của trẻ trong vòng 3 ngày. Phụ huynh cũng được yêu cầu cân thực phẩm trên đĩa trước và sau bữa ăn để tính xem trẻ đã ăn bao nhiêu. Đến khi trẻ được 9 và 12 tháng tuổi, cha mẹ làm lại báo cáo tương tự. Các nhà nghiên cứu cũng kiểm tra cân nặng và các số đo của trẻ tại các mốc thời gian trên.
Từ các thông tin thu được, nhóm nghiên cứu nhận thấy có 35 trẻ thực hiện chế độ ăn tự chỉ huy. Nguyên lý của chế độ ăn này là cha mẹ đặt trực tiếp thức ăn đã được cắt miếng nhỏ, vừa tay lên khay và cho trẻ tự cầm nắm hoặc tự xúc ăn theo cách trẻ muốn. Khi ăn dặm theo phương pháp này, trẻ ăn chủ yếu thực phẩm thô, lượng thực phẩm nghiền nhuyễn (dạng sinh tố, cháo bột) cung cấp chưa tới 10% tổng lượng calo.

Lượng calo trong chế độ ăn dặm truyền thông cũng tương đương với khi cho trẻ ăn dặm tự chỉ huy.
Ở nhóm đối chứng, các nhà khoa học lựa chọn 35 em bé có đặc điểm giới tính, chủng tộc, nuôi bằng sữa mẹ hoặc sữa công thức… tương tự nhóm ăn dặm tự chỉ huy. Tuy nhiên, trẻ được nuôi bằng phương pháp ăn dặm kiểu truyền thống, tức là người lớn đút thức ăn cho trẻ bằng thìa.
Kết quả cho thấy, lượng calo trẻ nạp vào ở cả hai nhóm không có sự khác biệt đáng kể. Ở thời điểm 9 tháng tuổi, nhóm trẻ ăn dặm tự chỉ huy ăn nhiều protein hơn 22% so với nhóm còn lại. Tuy nhiên, đến 12 tháng tuổi, lượng protein trong chế độ ăn của cả hai nhóm lại trở về tương đương.
Tại mốc 9 tháng và 12 tháng, trẻ ăn dặm tự chỉ huy tăng nhiều cân hơn, dù chênh lệch tương đối nhỏ. ThS. Kinzie Matzeller – chuyên gia dinh dưỡng tại Đại học Colorado, Mỹ, thành viên nhóm nghiên cứu cho biết: “Nếu chỉ nhìn vào biểu đồ tăng trưởng của trẻ ăn dặm tự chỉ huy và trẻ ăn dặm truyền thống thì tôi không thể phân biệt được. Ngay cả khi nhìn trẻ ngoài đời cũng khó nhận ra sự khác nhau”.

Nuôi trẻ ăn dặm tự chỉ huy cần trang bị nhiều dụng cụ, đòi hỏi cha mẹ có thời gian và kiên nhẫn.
Chuyên gia Matzeller lý giải, phương pháp ăn dặm tự chỉ huy phổ biến nhất ở nhóm bà mẹ có trình độ đào tạo Đại học, thu nhập hàng năm của hộ gia đình cũng cao hơn. Điều này cho thấy phương pháp này được ưa thích hơn ở gia đình tầng lớp trung lưu, khi cha mẹ có thời gian và điều kiện để cho trẻ tự ăn dặm theo ý thích.
Trong khi đó, các kết quả nghiên cứu tại Vương quốc Anh lại cho kết quả trái ngược: Trẻ ăn dặm tự chỉ huy nạp ít năng lượng cơn, còn trẻ được đút thức ăn dặm và uống sữa công thức lại tăng cân.
Chuyên gia Matzeller gợi ý cha mẹ quan tâm đến phương pháp ăn dặm tự chỉ huy nên cho trẻ ăn đa dạng thực phẩm như rau củ hấp, thịt cắt miếng nhỏ, trái cây mềm, phô mai. Trẻ thường phải tiếp xúc với một món ăn 15 lần mới bắt đầu chịu ăn, cha mẹ cần kiên nhẫn trong quá trình này.
Kết quả nghiên cứu được chia sẻ rộng rãi tại hội nghị thường niên của Hiệp hội Dinh dưỡng Mỹ vào cuối tháng 6 vừa qua. Các nhà khoa học cho rằng, cần có thêm nhiều nghiên cứu về chế độ ăn dặm tự chỉ huy để tìm ra lợi ích sức khỏe thực sự của phương pháp này.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Bắt đầu cho trẻ ăn dặm - Phần 1.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.
Vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe xương, hỗ trợ chức năng miễn dịch và điều hòa nhiều quá trình sinh lý trong cơ thể. Thiếu hụt vitamin D kéo dài có thể dẫn đến loãng xương, yếu cơ, tăng nguy cơ gãy xương và làm giảm khả năng chống nhiễm trùng.
Cúm mùa là một bệnh đường hô hấp do virus cúm gây ra, lây lan mạnh vào mùa thu và mùa đông. Mỗi năm có khoảng 1 tỷ người mắc cúm, trong đó có từ 3 đến 5 triệu trường hợp diễn biến nặng. Tiêm phòng cúm là cách hiệu quả để giảm nguy cơ mắc bệnh và hạn chế các biến chứng nghiêm trọng, đặc biệt với những người có nguy cơ cao. Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ phân tích lợi ích của việc tiêm vắc xin cúm, đối tượng cần ưu tiên tiêm và thời điểm thích hợp để thực hiện tiêm chủng.
Trứng là nguồn protein hoàn hảo nhưng để tối ưu hóa năng lượng và khả năng hấp thụ dưỡng chất cần ăn đúng cách. Tham khảo 5 thực phẩm nên ăn cùng trứng giúp trứng phát huy tối đa sức mạnh dinh dưỡng.
Khi trời mưa hoặc trở lạnh, bạn có thể cảm thấy tâm trạng mình đi xuống, thiếu năng lượng và lười biếng hơn. Điều này không phải ngẫu nhiên, mà là dấu hiệu cho thấy thời tiết có ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần. Bài viết này sẽ đi sâu vào mối liên hệ giữa thời tiết và cảm xúc, giải thích tại sao những thay đổi theo mùa có thể gây ra trầm cảm theo mùa, đồng thời giới thiệu các biện pháp tự nhiên để giúp bạn duy trì tinh thần lạc quan ngay cả trong những ngày u ám.
Giống như ca sĩ hay diễn giả, giáo viên thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ đau họng do phải nói liên tục trong nhiều giờ. Tham khảo một số đồ uống đơn giản giúp các thầy cô phòng ngừa và làm dịu cơn đau họng một cách hiệu quả.
Mùa thu đến mang theo không khí se lạnh, giảm độ ẩm, khiến da và tóc dễ rơi vào tình trạng khô ráp, nứt nẻ và thiếu sức sống.Thay đổi thời tiết không chỉ ảnh hưởng đến vẻ ngoài mà còn tác động đến sức khỏe của làn da và mái tóc. Điều chỉnh quy trình chăm sóc da và bảo vệ tóc trước tình trạng tóc khô xơ khi giao mùa là cần thiết để duy trì vẻ đẹp tự nhiên. Bài viết này sẽ cung cấp những phương pháp khoa học giúp bạn bảo vệ da và tóc hiệu quả trong mùa giao mùa.
Nhờ hiệu quả của thuốc kháng virus (ARV), ngày càng nhiều trẻ nhiễm HIV có thể phát triển, học tập và sinh hoạt bình thường như những trẻ khác. Tuy nhiên, dinh dưỡng vẫn là nền tảng của chăm sóc điều trị, giúp duy trì cân nặng, tăng sức đề kháng, giảm biến chứng và hạn chế tác dụng phụ của thuốc.