Tại Việt Nam, sau khi ghi nhận 3 ca mắc bệnh bạch hầu tử vong, Bộ Y tế yêu cầu các đơn vị y tế khẩn trương tập huấn nhắc lại hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh bạch hầu cho toàn bộ nhân viên y tế tham gia khám chữa bệnh. Tình hình bệnh bạch hầu đang diễn biến phức tạp tại một số tỉnh như Hà Giang, Điện Biên. Tính từ ngày 1/5-10/9/2023, trên địa bàn tỉnh Điện Biên ghi nhận 6 trường hợp mắc bệnh bạch hầu với 3 ổ dịch.
Bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Cụm từ “bạch hầu” được mô tả tình trạng vùng hầu/họng có giả mạc trắng; và bệnh cũng có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu gây ra.
Bệnh bạch hầu gây ra tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc cấp tính, do vi khuẩn xâm nhập qua da hoặc niêm mạc gây ra các giả mạc dai tại chỗ bị nhiễm khuẩn (hầu họng, thanh quản…) từ đó tiết ra các ngoại độc tố vào máu gây nhiễm độc cơ tim, thận, các dây thần kinh và có thể dẫn đến tử vong. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng khoảng 70% gặp phải ở trẻ dưới 15 tuổi và trẻ chưa được tiêm vaccine phòng bệnh. Đây là một bệnh nguy hiểm ở trẻ nhỏ với tỉ lệ tử vong cao – khoảng 50% nếu không được điều trị – và ngay cả khi được điều trị, tỉ lệ tử vong cũng lên tới 5-17%. Bệnh được phân loại thuộc nhóm B – nhóm các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có khả năng lây lan nhanh và có thể gây tử vong.
Các triệu chứng của bệnh bạch hầu:
Thể lâm sàng bạch hầu thể thanh quản là thể bệnh nặng ở trẻ, trong khi thể mũi là thể nhẹ. Ngoài ra, bạch hầu cũng có thể có thể ở da. Tình trạng nhiễm khuẩn bạch hầu không có triệu chứng chiếm một tỉ lệ lớn (khoảng 80%).
Các biến chứng của bệnh bạch hầu:
Vi khuẩn bạch hầu (Corynebacterium diphtheriae) thuộc họ Corynebacteriaceae do Klebs tìm thấy năm 1883. Vi khuẩn bạch hầu có 3 týp là Gravis, Mitis và Intermedius.
Sức đề kháng của vi khuẩn bạch hầu ở ngoài cơ thể rất cao, chúng chịu được khô lạnh nhưng không chịu được nhiệt độ cao. Vi khuẩn bạch hầu được chất nhày bảo vệ có thể sống vài ngày đến vài tuần ở một số môi trường như:
Vi khuẩn bạch hầu nhạy cảm với các yếu tố lý, hoá. Dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp vi khuẩn sẽ bi chết sau vài giờ, ánh sáng khuyếch tán sẽ bị chết sau vài ngày. Nhiệt độ 58 độ C sống được 10 phút, phenol 1% hoặc cồn 60 độ có thể sống được 1 phút.
Nguồn bệnh của bệnh bạch hầu là trên người. Người bệnh và người lành mang vi khuẩn vừa là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh. Điều này giải thích bệnh bạch hầu có thể xảy ra ở nơi mà trước đó không thấy có bệnh xuất hiện.
Bệnh bạch hầu là bệnh lây truyền trực tiếp từ người này sang người khác qua giọt bắn từ các dịch tiết đường hô hấp của người bệnh qua đường hô hấp, hoặc gián tiếp qua đồ chơi, vật dụng có dính dịch tiết của người bệnh.
Thời kỳ lây truyền khoảng 2 tuần. Người bệnh có thể đào thải vi khuẩn ngay từ cuối thời kỳ ủ bệnh. Người lành mang vi khuẩn có thể mang vi khuẩn bạch hầu từ vài ngày đến 4 tuần. Thông thường, thời kỳ ủ bệnh là khoảng từ 2-5 ngày.
Bệnh có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi, nếu chưa có kháng thể bảo vệ. Đối với trẻ sơ sinh, kháng thể miễn dịch của mẹ được chuyển sang con có tác dụng miễn dịch bảo vệ tương đối, và thường sẽ hết tác dụng trước 6 tháng tuổi. Đây là lý do phải tiêm vaccine cho trẻ để giúp trẻ có miễn dịch bệnh.
Bệnh có tính miễn dịch bền vững. Người mắc bệnh sau khi khỏi bệnh sẽ không bị mắc lại vì cơ thể được miễn dịch lâu dài. Đặc biệt đối với thể nhiễm trùng không triệu chứng cũng tạo được miễn dịch bền vững.
Một đặc điểm đặc biệt của bệnh là tính miễn dịch của kháng độc tố, kể cả miễn dịch được tạo thành sau khi tiêm vaccine giải độc tố (toxoid) sẽ bảo vệ được cơ thể đối với bệnh bạch hầu, nhưng không ngăn ngừa được sự nhiễm khuẩn tại chỗ vùng mũi họng.
Kể từ khi Việt Nam chưa thực hiện tiêm phòng vaccine bạch hầu cho trẻ em, bệnh bạch hầu thường xuyên xảy ra và gây dịch ở hầu hết các tỉnh. Tuy nhiên khi áp dụng tiêm vaccine, tỉ lệ mắc bệnh đã giảm rõ rệt. Có thể thấy rằng việc đưa vaccine vào trong hệ thống tiêm chủng mở rộng cho trẻ là một quyết định đúng đắn, một bước đi chính xác trong việc ngăn chặn và bảo vệ nhóm đối tượng trẻ nhỏ trước căn bệnh nguy hiểm này.
Báo cáo về tỉ lệ mắc bệnh bạch hầu ở Việt Nam có thể chia thành các giai đoạn:
Việc triển khai vaccine phòng bệnh bạch hầu trong hơn 30 năm qua đã làm giảm tỷ lệ mắc từ năm 2015 xuống dưới mức 0,01/100.000 dân, tương đương 247,4 lần so với trước khi triển khai vaccine.
Mặc dù vậy, khoảng hơn 10 năm trở lại đây, cả nước vẫn ghi nhận các trường hợp mắc bạch hầu tản phát mỗi năm. Trong các năm 2008, 2015, 2016, 2019, 2020 và mới đây là 2023, Việt Nam ghi nhận trở lại ổ dịch bạch hầu trên qui mô xã, huyện, đặc biệt là ở khu vực Tây Nguyên năm 2020 và một số tỉnh miền Bắc năm 2023.

Vaccine bạch hầu được phát triển vào năm 1923. Đến năm 1985, Việt Nam chính thức đưa vaccine bạch hầu vào chương trình Tiêm chủng mở rộng cùng với 5 bệnh khác là lao, ho gà, uốn ván, bại liệt và sởi.
Để giảm số lượng mũi tiêm cho trẻ cũng như thuận tiện cho phụ huynh trong việc đưa trẻ đi tiêm, đã có nhiều vaccine phối hợp được sản xuất. Hiện nay, tại Việt Nam, có các loại vaccine sau có chứa thành phần bạch hầu:
Trong các vaccine trên, ComBeFive, SII, DPT là các vaccine của chương trình Tiêm chủng mở rộng. Các vaccine này được Chính phủ chi ngân sách mua để tiêm chủng miễn phí cho tất cả trẻ em trong độ tuổi quy định. Các vaccine còn lại là vaccine ngoài chương trình, phải trả phí khi tiêm chủng. Infanrix Hexa, Hexaxim và Pentaxim là những vaccine có thể lựa chọn để tiêm chủng các mũi cơ bản theo lịch Tiêm chủng mở rộng cho trẻ em dưới 1 tuổi.
Lịch tiêm chủng bắt buộc vaccine phối hợp có chứa thành phần bạch hầu gồm 3 liều cách nhau ít nhất 1 tháng bắt đầu từ lúc trẻ đủ 2 tháng tuổi, và 1 liều tiêm nhắc thứ tư lúc trẻ 18 tháng tuổi. Mũi tiêm nhắc là rất cần thiết vì nó giúp kéo dài hiệu quả bảo vệ của vaccine phòng bệnh bạch hầu ít nhất 5 năm. Liều lượng thuốc trong mỗi lần tiêm là 0,5ml và được tiêm bắp ở vị trí 1/3 giữa mặt ngoài đùi. Ngoài lịch tiêm chủng bắt buộc nêu trên, vaccine bạch hầu được khuyến cáo tiêm nhắc vào các độ tuổi từ 4 – 7 tuổi, từ 12-15 tuổi và sau đó tiêm nhắc mỗi 10 năm bằng các vaccine DTaP, Td, Tdap.

Một yêu cầu quan trọng để đảm bảo miễn dịch cộng đồng của bệnh bạch hầu chính là đảm bảo đạt tỷ lệ tiêm chủng thường xuyên từ 95% trở lên ở các xã, phường, thị trấn, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng xa, nơi tiếp cận dịch vụ y tế còn hạn chế.
Có thể thấy rằng việc tiêm chủng vaccine bạch hầu là một trong những biện pháp rất hiệu quả trong ngăn ngừa mắc bệnh và giảm tỉ lệ tử vong do bệnh, đặc biệt ở nhóm đối tượng nguy cao là trẻ nhỏ. Việc tiêm chủng đủ 4 mũi vaccine DPT hoặc DPT-VGB-Hib khi dưới 1 tuổi và tiêm nhắc 1 mũi vaccine khi trẻ ngoài 1 tuổi sẽ giúp cho trẻ được phòng bệnh trong khoảng 10 năm. Trong những năm qua, tỷ lệ tiêm chủng cao ở hầu hết các tỉnh, thành phố đã giúp tạo nền tảng miễn dịch cộng đồng, giúp cho hàng trăm ngàn trẻ em không mắc bệnh bạch hầu trong nhiều năm qua.
Tuy nhiên trong thời gian trở lại đây, vẫn xuất hiện các ổ dịch lẻ ở một số địa điểm, thường là ở khu vực vùng núi cao, vùng khó khăn với quy mô xã hoặc thôn/bản. Khảo sát cho thấy, các khu vực này là các khu vực có tỷ lệ bao phủ tiêm chủng thấp, và điều này sẽ tạo ra các khoảng trống miễn dịch trong cộng đồng, từ đó gia tăng nguy cơ xuất hiện ca bệnh. Đối với nhóm trẻ lớn và người lớn nếu không được tiêm nhắc lại sẽ có nguy cơ mắc bệnh do miễn dịch giảm dần theo thời gian.
Để phòng bệnh bạch hầu, cần thực hiện các biện pháp dự phòng như sau:
Tổng kết
Bệnh bạch hầu là bệnh lây truyền trực tiếp từ người này sang người, thông qua giọt bắn từ các dịch tiết đường hô hấp của người bệnh qua đường hô hấp, hoặc gián tiếp qua đồ chơi, vật dụng có dính dịch tiết của người bệnh. Bệnh có thể để lại các biến chứng nặng nề và lây lan thành dịch.
Tiêm ngừa vaccine là biện pháp hiệu quả nhất để phòng bệnh bạch hầu. Vaccine phòng bệnh bạch hầu hiện nay được đưa vào Chương trình Tiêm chủng mở rộng, cùng với 5 bệnh khác và được cung cấp miễn phí cho trẻ em trong độ tuổi quy định. Việc tiêm vaccine bạch hầu đúng thời điểm, đủ số mũi là biện pháp không chỉ phòng bệnh cho bản thân mà còn cho toàn cộng đồng.
Tài liệu tham khảo:
Tham khảo thêm thông tin tại: Phản đối tiêm chủng và những hệ quả
Mức collagen bạn nên bổ sung phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ ăn uống, tuổi tác, sức khỏe tổng thể và loại thực phẩm bổ sung. Liều dùng hàng ngày từ 2,5 đến 15 gram có thể an toàn và hiệu quả nếu bạn cần bổ sung collagen cho cơ thể.
Hội chứng ống cổ tay ảnh hưởng tới khoảng 50-60% phụ nữ mang thai và thường gặp ở ba tháng cuối của thai kỳ. Hội chứng này có thể gây ra một số triệu chứng khó chịu cho thai phụ và có thể tự hết sau sinh vài tuần. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp khó chịu mà bạn cần tới gặp bác sĩ ngay. Cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây!
Đây là một hiểu nhầm khá thú vị bởi đàn ông thường cho mình là phái mạnh, loãng xương là bệnh của phải yếu – chị em mới bị loãng xương!
Khi trời lạnh, cơ thể trở nên nhạy cảm hơn trước sự tấn công của các loại virus gây bệnh đường hô hấp. Việc duy trì thói quen uống một ly nước chanh gừng ấm vào buổi sáng là liệu pháp tự nhiên tuyệt vời giúp kích hoạt hệ miễn dịch và giữ ấm cơ thể từ bên trong.
Không gian sinh hoạt hàng ngày của chúng ta càng trở nên quan trọng hơn trong những tháng mùa đông khi chúng ta thường xuyên phải ở trong nhà để tránh xa cái lạnh. Khi các tòa nhà được bịt kín để giữ nhiệt trong mùa đông, các chất ô nhiễm có khả năng gây hại cũng bị giữ lại bên trong. Do đó, điều quan trọng là phải đảm bảo không khí bên trong các tòa nhà đó an toàn để hít thở với nồng độ chất ô nhiễm không khí trong nhà thấp hoặc không có, đặc biệt là những chất có thể gây ung thư hoặc khiến cơ thể dễ mắc bệnh hơn.
Nếu thường xuyên trằn trọc, khó ngủ, hãy tham khảo 6 loại trà thảo mộc được coi là liều thuốc tự nhiên hỗ trợ điều trị mất ngủ hiệu quả.
Thời tiết mùa đông khiến các vấn đề sức khỏe như cảm cúm, sốt, dị ứng, và tiêu chảy dễ xảy ra. Vì vậy, việc chuẩn bị một tủ thuốc gia đình là rất quan trọng, đặc biệt với các gia đình nhiều thế hệ. Tủ thuốc này không chỉ giúp xử lý kịp thời các bệnh nhẹ mà còn giảm thiểu rủi ro khi chưa thể đến cơ sở y tế ngay. Bài viết này sẽ hướng dẫn cách chuẩn bị tủ thuốc với các loại thuốc cảm cúm, hạ sốt, và các vật dụng y tế thiết yếu để các gia đình vượt qua mùa đông một cách an toàn.
Sức khỏe răng từ những năm đầu đời là sự kết hợp khăng khít bởi ba yếu tố: sức khỏe và chế độ ăn uống từ giai đoạn bào thai, lượng fluoride phù hợp và thói quen vệ sinh răng miệng hàng ngày phù hợp với từng độ tuổi.