Các nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực đã coi vắc xin là một trong những thành tựu quan trọng của thế kỷ 20 trong việc bảo vệ sức khỏe con người, nhưng không phải tất cả mọi người trên thế giới đều đồng ý với điều này. Từ khi vắc xin bắt đầu xuất hiện thì đã có những người phản đối tiêm chủng.
Trong vài năm gần đây, phản đối tiêm chủng trở nên một hiện tượng và có xu hướng lan rộng trong một số nhóm người tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Các bậc phụ huynh từ chối tiêm chủng cho con mình vì nhiều lý do khác nhau, trong đó phổ biến nhất là vắc xin có thể gây nên bệnh tự kỷ ở trẻ em cũng như ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Điều này đã dẫn đến sự trở lại hoặc bùng phát của một số bệnh truyền nhiễm gần như là đã biến mất hoặc được khống chế tốt trong nhiều năm tại một số quốc gia, chẳng hạn như bệnh sởi tại Mỹ trong năm 2014- 2015.
Phản đối vắc xin có từ bao giờ?
Phản đối vắc xin bắt đầu xuất hiện từ đầu thế kỷ 19, khi vắc xin phòng bệnh đậu mùa bắt đầu được sử dụng trên qui mô lớn. Ý tưởng sử dụng một phần kháng nguyên gây nên bệnh đậu mùa ở động vật để tiêm cho người giúp con người chống lại căn bệnh đậu mùa đã gặp phải rất nhiều lời chỉ trích. Những lời chỉ trích dựa trên những lí do về vệ sinh, tôn giáo và chính trị. Một số giáo sĩ thời đó còn tin rằng vắc xin chống lại tôn giáo của họ.
Vào những năm 1970, vắc xin phòng bệnh bạch hầu – ho gà – uốn ván (DTP) đã đối mặt với một làn sóng phản đối cho rằng nó có liên quan đến các rối loạn thần kinh. Các nghiên cứu sau đó đã khẳng định rằng những nguy cơ là rất nhỏ.
Để chống lại sự phản đối vắc xin, tại một số quốc gia, thậm chí đã phải ban hành luật pháp yêu cầu bắt buộc tiêm chủng như là một thước đo của sức khoẻ cộng đồng.

Có nhiều lý do đằng sau sự phản đối tiêm chủng. Một số người từ chối tiêm chủng bởi vì những nguy cơ của những phản ứng sau tiêm chủng, đặc biệt là những phản ứng nặng sau tiêm chủng gây nên tàn tật hoặc tử vong cho những người tiêm chủng . Nhưng những thống kê cho thấy nguy cơ này là rất nhỏ.
Một lý do phổ biến khác để phản đối vắc xin, khi có những người trích dẫn những niềm tin tôn giáo để giải thích sự phản đối tiêm chủng của mình. Mặc dù hầu hết các tôn giáo chính thống đều không lên án vắc xin.
Có một quan điểm khác cho rằng bệnh tật đã biến mất khi chúng ta cải thiện điều kiện vệ sinh tốt hơn chứ không phải do vắc xin. Quan điểm này đã được chứng minh là sai bởi sự quay trở lại của các căn bệnh nhiễm trùng đã được loại trừ trước đây.
Cũng có người nghi ngờ hiệu quả bảo vệ cơ thể của vắc xin. Tuy nhiên bạn cần biết rằng những người đã chủng ngừa một loại vắc xin nào đó sẽ có khả năng cao không bị mắc bệnh đó, hoặc nếu có mắc thì các triệu chứng của bệnh cũng nhẹ hơn và thời gian điều trị cũng được rút ngắn.
Nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến tình trạng phản đối tiêm chủng tại Hoa Kỳ là những người phản đối cho rằng những rủi ro mà họ phải gánh chịu khi tiêm chủng còn lớn hơn lợi ích mà họ có thể thu được. Các bậc cha mẹ trích dẫn nhiều biến chứng y khoa, bao gồm cả chứng tự kỷ, như là những hậu quả có thể xảy ra khi tiêm chủng.
Có một niềm tin phổ biến rằng vì căn bệnh này đã được loại bỏ, nên không cần sử dụng vắc xin để chủng ngừa chúng nữa. Tuy nhiên bệnh chỉ thực sự bị loại bỏ và không còn nguy cơ bùng phát trở lại khi con người được cung cấp đầy đủ kháng thể chống lại bệnh tật qua tiêm chủng. Hơn nữa, tỷ lệ miễn dịch của cả cộng đồng phải đạt đến một giới hạn nhất định mới có khả năng phòng chống bệnh tật.
Và nhiều người nghĩ rằng các công ty dược phẩm sản xuất vắc xin không đáng tin cậy. Họ tin rằng các công ty sản xuất chỉ muốn bán được thật nhiều, và không hề quan tâm đến hậu quả trên người sử dụng chúng.

Niềm tin rằng vắc-xin có thể gây ra chứng tự kỷ đã trở nên phổ biến trong vài năm gần đây. Các bậc cha mẹ dường như rất lo ngại về việc sử dụng vắc xin MMR (sởi,quai bị, rubella) và nguy cơ tự kỷ. Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng vắc xin MMR không gây ra chứng tự kỷ. Hầu hết các nghiên cứu này đều được tiến hành trên các cỡ mẫu đủ lớn. Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) cũng khẳng định vắc xin là an toàn trong hầu hết các các trường hợp. CDC cũng đã làm rõ những thành phần trong vắc xin không gây ra chứng tự kỷ.
Thimerosal là một thành phần đã được sử dụng trong một số loại văcxin, cũng gây ra những lo ngại. Đây là chất được cho là gây ra chứng tự kỷ. Hiện nay nó chỉ được sử dụng trong một số loại văcxin cúm. Cũng có những loại văc xin phòng cúm không chứa thimerosal. Mặc dù vậy, CDC cho biết chất thimerosal không gây ra chứng tự kỷ.
Vắc xin cúm
Một số người từ chối tiêm phòng văcxin cúm cho bản thân và con cái. Những lí do họ đưa ra, bao gồm:
Vắc xin phòng cúm được khuyến nghị cho đa số mọi người từ sáu tháng tuổi trở lên. Vắc xin có thể được tiêm hoặc sử dụng ở dạng xịt mũi để đáp ứng với những nhu cầu sử dụng khác nhau. Một số người mắc các loại dị ứng khác nhau có thể lựa chọn loại vắc xin cúm phù hợp với mình. Và hầu hết các phản ứng phụ (nếu có) khi sử dụng vắc xin cúm đều giảm dần và biến mất trong vòng 1 đến 2 ngày.

Đôi khi sự phản đối vacxin xuất phát trực tiếp từ sự không tin tưởng vào khoa học, hay sự nghi ngờ chính phủ. Một số người cho rằng các công ty dược phẩm và các nhà khoa học chỉ muốn bán được thật nhiều sản phẩm mà không hề bận tâm đến hậu quả.
Những người khác hoài nghi về những cơ sở khoa học mà họ không hiểu, hoặc các loại hóa chất mà họ không biết được sử dụng trong vắc xin.
Một số cha mẹ thích thú với những thành phần tự nhiên hoặc các liệu pháp điều trị thay thế hơn là sử dụng vắc xin. Những liệu pháp điều trị này có thể giúp giảm bớt các triệu chứng của một số bệnh, nhưng lại không hiệu quả trong việc phòng ngừa bệnh tật.
Khi mọi người không có niềm tin vào khoa học, họ cũng sẽ từ chối vắc xin và cũng không tin tưởng vào những bác sỹ đã khuyến nghị họ sử dụng vắc xin.
Hệ quả của phản đối tiêm chủng
Trong khi một số người không thể tiêm chủng do những phản ứng dị ứng tiềm ẩn, những người khác từ chối tiêm phòng cho bản thân hoặc con em mình vì nhiều lý do khác nhau. Hầu hết các lí do của việc từ chối tiêm chủng chỉ là những quan niệm sai lầm.
Thật không may, quyết định không tiêm vắc xin cho bản thân hoặc cho các con không chỉ ảnh hưởng đến bản thân những người không tiêm vắc xin. Với một số lượng đủ lớn những người từ chối tiêm vắc xin, đã dẫn tới sự quay trở lại của các căn bệnh truyền nhiễm ở những khu vực mà trước đây căn bệnh này đã được thanh toán.
Sởi là bệnh nguy hiểm và có khả năng gây tử vong. Sởi được tuyên bố là đã được loại trừ ở Hoa Kỳ vào năm 2002. Nhưng trong năm 2014, có hơn 600 trường hợp mắc sởi được báo cáo. Các chuyên gia y tế giải thích rằng việc các bậc phụ huynh từ chối tiêm phòng vắc xin cho con cái của họ là nguyên nhân đằng sau việc dịch sởi bùng phát trở lại tại Mỹ năm 2014 và năm 2015.
Bệnh ho gà cũng chứng kiến sự gia tăng đáng kể các ca bệnh được báo cáo do việc từ chối tiêm chủng. Tại Việt Nam, từ đầu năm 2017 đến nay, đã ghi nhận số trẻ mắc ho gà liên tục gia tăng so với cùng kỳ năm trước, đa số trường hợp trẻ mắc ho gà và tử vong đều chưa được tiêm vắc xin phòng bệnh, hoặc tiêm chưa đầy đủ.
Bệnh bạch hầu cũng đã được khống chế tại nhiều quốc gia nhưng gần đây cũng ghi nhận các vụ dịch bạch hầu quay trở lại. Ở Việt Nam, trước đây bệnh lưu hành khá phổ biến ở hầu hết các địa phương trên cả nước; từ khi vắc xin phòng bạch hầu được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng, bệnh đã được khống chế và chỉ ghi nhận một vài trường hợp lẻ tẻ do không tiêm vắc xin phòng bệnh, thường xảy ra ở các khu vực vùng sâu, vùng xa nơi có tỷ lệ tiêm chủng thấp. Cách tốt nhất để chủ động phòng chống bệnh bạch hầu là đi tiêm chủng tiêm vắc xin phối hợp phòng bệnh bạch hầu như Quinvaxem hoặc DTP, Td đầy đủ, đúng lịch.
Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc về việc tiêm chủng cho bản thân hoặc các con bạn, hãy hỏi ý kiến bác sỹ để nhận được những lời khuyên khoa học. Trong hầu hết các trường hợp, những nguy cơ của tiêm chủng là nhỏ hơn nhiều so với những hậu quả của việc mắc bệnh và bùng phát dịch bệnh.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Vắc xin hoạt động thế nào?
Vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe xương, hỗ trợ chức năng miễn dịch và điều hòa nhiều quá trình sinh lý trong cơ thể. Thiếu hụt vitamin D kéo dài có thể dẫn đến loãng xương, yếu cơ, tăng nguy cơ gãy xương và làm giảm khả năng chống nhiễm trùng.
Cúm mùa là một bệnh đường hô hấp do virus cúm gây ra, lây lan mạnh vào mùa thu và mùa đông. Mỗi năm có khoảng 1 tỷ người mắc cúm, trong đó có từ 3 đến 5 triệu trường hợp diễn biến nặng. Tiêm phòng cúm là cách hiệu quả để giảm nguy cơ mắc bệnh và hạn chế các biến chứng nghiêm trọng, đặc biệt với những người có nguy cơ cao. Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ phân tích lợi ích của việc tiêm vắc xin cúm, đối tượng cần ưu tiên tiêm và thời điểm thích hợp để thực hiện tiêm chủng.
Trứng là nguồn protein hoàn hảo nhưng để tối ưu hóa năng lượng và khả năng hấp thụ dưỡng chất cần ăn đúng cách. Tham khảo 5 thực phẩm nên ăn cùng trứng giúp trứng phát huy tối đa sức mạnh dinh dưỡng.
Khi trời mưa hoặc trở lạnh, bạn có thể cảm thấy tâm trạng mình đi xuống, thiếu năng lượng và lười biếng hơn. Điều này không phải ngẫu nhiên, mà là dấu hiệu cho thấy thời tiết có ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần. Bài viết này sẽ đi sâu vào mối liên hệ giữa thời tiết và cảm xúc, giải thích tại sao những thay đổi theo mùa có thể gây ra trầm cảm theo mùa, đồng thời giới thiệu các biện pháp tự nhiên để giúp bạn duy trì tinh thần lạc quan ngay cả trong những ngày u ám.
Giống như ca sĩ hay diễn giả, giáo viên thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ đau họng do phải nói liên tục trong nhiều giờ. Tham khảo một số đồ uống đơn giản giúp các thầy cô phòng ngừa và làm dịu cơn đau họng một cách hiệu quả.
Mùa thu đến mang theo không khí se lạnh, giảm độ ẩm, khiến da và tóc dễ rơi vào tình trạng khô ráp, nứt nẻ và thiếu sức sống.Thay đổi thời tiết không chỉ ảnh hưởng đến vẻ ngoài mà còn tác động đến sức khỏe của làn da và mái tóc. Điều chỉnh quy trình chăm sóc da và bảo vệ tóc trước tình trạng tóc khô xơ khi giao mùa là cần thiết để duy trì vẻ đẹp tự nhiên. Bài viết này sẽ cung cấp những phương pháp khoa học giúp bạn bảo vệ da và tóc hiệu quả trong mùa giao mùa.
Nhờ hiệu quả của thuốc kháng virus (ARV), ngày càng nhiều trẻ nhiễm HIV có thể phát triển, học tập và sinh hoạt bình thường như những trẻ khác. Tuy nhiên, dinh dưỡng vẫn là nền tảng của chăm sóc điều trị, giúp duy trì cân nặng, tăng sức đề kháng, giảm biến chứng và hạn chế tác dụng phụ của thuốc.
Lõm ngực bẩm sinh xảy ra khi xương ức phát triển bất thường tạo ra vết lõm trên thành ngực của bạn và có thể gây ra các vấn đề về thể chất cũng như cảm xúc cho trẻ. Cùng tìm hiểu về bệnh lý lõm ngực bẩm sinh ở trẻ qua bài viết sau đây!