Khả năng sinh sản của nam giới và nữ giới suy giảm theo tuổi. Tuổi càng cao thì càng khó có thể thụ thai hơn và nguy cơ biến chứng thai kỳ cũng cao hơn.
Ảnh hưởng đến khả năng sinh sản
Khả năng sinh sản của nam và nữ giới giảm theo tuổi. Đối với phụ nữ, khả năng sinh sản sẽ cao cao nhất ở tuổi vị thành niên và đầu những năm 20 tuổi, và có thể bắt đầu giảm ở tuổi 30.
Theo Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) , khoảng 1/4 phụ nữ khỏe mạnh ở độ tuổi 20 hoặc 30 đều có khả năng thụ thai trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt, trong khi tỷ lệ này chỉ là 1/10 với phụ nữ khỏe mạnh ở độ tuổi 40. Điều này là do, khi phụ nữ có tuổi, nguồn cung cấp và khả năng tồn tại của trứng sẽ giảm. Ngoài ra, nồng độ hormone có thể thay đổi, khiến cơ thể gặp khó khăn để có được thai kỳ khỏe mạnh.
Tuổi tác cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của nam giới, nhưng sự suy giảm ở nam giới ít dự đoán được hơn so với nữ giới. Ngoài ra, nam giới trên 45 tuổi có thể khiến việc thụ thai trở nên khó khăn hơn. Nó cũng có thể làm tăng khả năng biến chứng thai kỳ.
Cụ thể, tuổi càng cao có thể làm tăng nguy cơ :
Sảy thai
Bất thường di truyền
Hở hàm ếch
Tiểu đường thai kỳ
Tiền sản giật
Sinh non
Cân nặng khi sinh thấp
Bệnh tim
Co giật
Ảnh hưởng đến thai kỳ
Cha mẹ cao tuổi có thể làm tăng khả năng xuất hiện các bất thường bẩm sinh và sảy thai.
Bất thường bẩm sinh
Theo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) Hoa Kỳ, 1 trên 33 trẻ ở Hoa Kỳ sinh ra có các bất thường bẩm sinh.
Một nghiên cứu năm 2015 cho thấy phụ nữ từ 40 tuổi trở lên có nhiều nguy cơ sinh con với các dị tật bẩm sinh, bao gồm:
Liền sớm khớp sọ, bệnh mà các thóp của sọ liền sớm
Lỗ đái thấp - một dị tật mà niệu đạo hình thành ở mặt dưới của dương vật
Teo thực quản bẩm sinh, trong đó thực quản không kết nối với dạ dày
Tuổi mẹ cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh em bé mắc hội chứng Down. Theo CDC, khoảng 1 trên 700 trẻ sơ sinh được sinh ra ở Mỹ mắc hội chứng Down. Đây là bệnh lý do thừa nhiễm sắc thể, khi đó cơ thể người có 47 nhiễm sắc thể thay vì 46 nhiễm sắc thể như bình thường. Thông thường nhiễm sắc thể thừa này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển tinh thần và thể chất của em bé trước và sau khi sinh.
Biểu đồ dưới đây mô tả mức độ ảnh hưởng của tuổi mẹ đến khả năng sinh em bé mắc hội chứng Down:
Tuổi mẹ |
Cơ hội của hội chứng Down |
20 năm |
1 trên 1.480 |
30 năm |
1 trong 940 |
35 năm |
1 trong 353 |
40 năm |
1 trên 85 |
45 năm |
1 trên 35 |
Mang thai và thai chết lưu
Thụ thai khi tuổi đã cao cũng có thể làm tăng nguy cơ sảy thai. Một nghiên cứu năm 2019 về phụ nữ ở Na Uy cho thấy,mặc dù tỷ lệ sảy thai chung là 12,8%, tỷ lệ này ở phụ nữ từ 45 tuổi trở lên là 53%.
Điều quan trọng là cần lưu ý rằng có một loạt các yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ sảy thai. Các tác giả của nghiên cứu trên cũng nhận định những lần sảy thai và các biến chứng thai kỳ trước đó cũng được coi là các yếu tố nguy cơ.
Nguy cơ thai chết lưu cũng tăng theo tuổi của mẹ. Các số liệu dưới đây đến từ một nghiên cứu dựa trên dân số năm 2015 tại Thụy Điển:
Tuổi mẹ |
Nguy cơ thai chết lưu |
25 tuổi29 năm |
0,27% |
30 tuổi34 năm |
0,31% |
35 tuổi39 năm |
0,40% |
Hơn 40 năm |
0,53% |
Tiền sản giật
Tiền sản giật là một tình trạng đặc trưng bởi huyết áp cao, và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ và bệnh tật ở trẻ sơ sinh. ACOG lưu ý rằng huyết áp bắt đầu tăng thường sau tuần thứ 20 của thai kỳ.
Các rối loạn do tăng huyết áp, bao gồm tiền sản giật, ảnh hưởng đến 10% thai kỳ trên toàn thế giới. Nguy cơ tiền sản giật cao hơn ở những phụ nữ mang thai trên 40 tuổi.
Bất cứ ai gặp các triệu chứng tiền sản giật nên đến các cơ sở y tế ngay. Một số triệu chứng này bao gồm:
sưng ở mặt và tay
giảm tần suất và lượng nước tiểu
khó thở
cáu gắt
những thay đổi về tầm nhìn, chẳng hạn như tăng độ nhạy cảm với ánh sáng hoặc nhìn thấy những tia sáng
tăng cân 1.5-2.5kg trong 1 tuần
đau đầu
đau bụng
buồn nôn
nôn
Khi nào thì nên đến gặp bác sĩ hỗ trợ sinh sản ?
Dù nguy cơ biến chứng thai kỳ có tăng lên sau 35 tuổi, thì nhiều phụ nữ ở độ tuổi này vẫn có thai kỳ khỏe mạnh. Theo ACOG , nếu phụ nữ trên 35 tuổi đã cố gắng mang thai, không có kết quả, trong ít nhất 6 tháng, thì có thể đến gặp bác sĩ hỗ trợ sinh sản. Ngoài ra, bất kỳ phụ nữ nào trên 40 tuổi nên được khám tổng quát trước khi cố gắng thụ thai. Một chuyên gia về hỗ trợ sinh sản có thể kiểm tra mức độ hormone, đề xuất các cách để tăng khả năng sinh sản, và cung cấp các lựa chọn điều trị, nếu cần thiết.
Đối với bất cứ ai đang cố gắng thụ thai, chăm sóc trước khi sinh đúng cách là điều cần thiết.
Lựa chọn thay thế
Nếu một phụ nữ gặp khó khăn khi mang thai hoặc muốn trì hoãn việc mang thai, thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) hoặc trứng đông lạnh có thể là lựa chọn hữu ích. IVF liên quan đến việc kết hợp tinh trùng với trứng bên ngoài cơ thể. Nếu phôi phát triển, một người phụ nữ có thể chọn cấy nó hoặc đông lạnh nó và lưu trữ. Một lựa chọn khác là bảo quản lạnh noãn bào - đông lạnh và lưu trữ trứng để sử dụng vào một ngày sau đó. Tuy nhiên, những lựa chọn thay thế này có thể tốn kém.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Mang thai và tuổi tác của chị em
Công nghệ xâm nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống khiến hầu hết trẻ em ngày nay dành hàng giờ liền trước các thiết bị số như điện thoại, tivi và máy tính bảng.
Bất cứ độ tuổi nào cũng cần tập luyện thể thao vì tập luyện thể thao mang lại rất nhiều lợi ích cho sức khoẻ. Trẻ em có thể bắt đầu tập luyện thể thao từ rất sớm để hình thành thói quen tập luyện hàng ngày cho trẻ.
Việc cắt bớt thời gian ngủ có thể gây nhiều tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe.
Vitamin K2, còn được gọi là menaquinone, là một loại vitamin thiết yếu đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của xương và tim mạch. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hiểu lầm xung quanh tác dụng của vitamin này.
Việc mắc kẹt trong thói quen lặp đi lặp lại có thể khiến chức năng nhận thức, ghi nhớ bị suy giảm.
Huyết áp cao, còn được gọi là tăng huyết áp, làm tăng nguy cơ mắc nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Theo Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ, tăng huyết áp có thể dẫn đến bệnh tim, đột quỵ và bệnh thận, cùng nhiều nguy cơ sức khỏe khác.
Một số thói quen tưởng chừng lành mạnh lại có thể âm thầm làm suy yếu hệ miễn dịch, ảnh hưởng xấu tới sức đề kháng và sức khỏe nói chung.
Vitamin K, cùng với các vitamin A, D, E là các vitamin tan trong dầu, đóng vai trò rất quan trọng đối với sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe trẻ em. Nếu như đối với các vitamin khác, hầu hết phụ huynh đều có ý thức bổ sung cho trẻ thông qua chế độ ăn và sử dụng các loại thực phẩm bổ sung theo chỉ định của bác sĩ, thì với vitamin K, đặc biệt là vitamin K2, nhiều phụ huynh vẫn còn băn khoăn về việc có nên bổ sung vitamin K cho trẻ hay không và bổ sung như thế nào cho hợp lý?