Asen có mặt trong nhiều loại thực phẩm như ngũ cốc, hoa quả và rau xanh thông qua quá trình hấp thu nước và các chất dinh dưỡng từ đất. Các loại thuỷ, hải sản cũng có chứa Asen với hàm lượng nhất định và khác nhau theo từng loại. Gạo và hải sản là 2 thực phẩm có chứa lượng Asen nhiều hơn các thực phẩm khác, tuy nhiên Asen trong hải sản chủ yếu là loại hữu cơ, được đào thải ra khỏi cơ thể nhanh và ít độc tính hơn nhiều so với Asen vô cơ.
Lượng Asen có trong thực phẩm hữu cơ và các thực phẩm thông thường cũng không khác nhau vì asen tồn tại trong đất và nước từ nhiều năm nay nên dù có canh tác theo kiểu nào thì cây vẫn hấp thu một lượng Asen không đổi.
Năm 2014, Ủy ban Tiêu chuẩn Thực phẩm của Liên hợp quốc và Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) đã đưa ra bộ quy định hàm lượng cho phép của một số chất trong thực phẩm, trong đó có quy định tổng lượng asen trong gạo không được vượt quá 0,2mg/kg.
Năm 2015, Ủy ban liên minh Châu Âu đã điều chỉnh mức độ chấp nhận Asen vô cơ trong thực phẩm, trong đó quy định lượng Asen vô cơ trong gạo trắng là 0,2mg/kg, mức 0,3mg/kg cho các loại bánh gạo, 0,25mg/kg cho gạo nguyên cám và không quá 0,1mg/kg cho các sản phẩm chế biến từ gạo cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Dựa trên các số liệu về Asen vô cơ, Ủy ban An toàn Thực phẩm châu Âu công bố lượng Asen vô cơ có trong cá là 0,03 mg/kg và 0,1 mg/kg được coi là an toàn cho sức khỏe con người.
Tại Việt Nam, Quyết định số 46/2007/QĐ-BYT ngày 19 tháng 12 năm 2007 của Bộ Y tế quy định giới hạn tối đa Asen cho phép có mặt trong thực phẩm như sau:
Vitamin D đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phản ứng miễn dịch. Tuy nhiên, nếu bổ sung vitamin D quá liều có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nguy hiểm.
Căng thẳng khiến trẻ em không thể học tập và người lớn không thể thực hiện được công việc của mình. Đó là lý do tại sao trẻ em và người lớn phải được dạy cách nhận biết về các dấu hiệu, triệu chứng của lo âu và trầm cảm, đồng thời nỗ lực phát triển các công cụ chống lại các tác nhân gây căng thẳng.
Các bệnh lý về tim mạch được mệnh danh là những "kẻ sát nhân thầm lặng" vì thường diễn biến âm thầm. Vì vậy, nếu đột nhiên gặp phải những dấu hiệu dưới đây thì bạn cần thận trọng.
Melanin là sắc tố mang lại màu sắc cho tóc. Khi nhiều tuổi, việc sản xuất melanin giảm dần, dẫn đến tóc dần mất màu và chuyển bạc. Tuy nhiên, nếu tóc bạc sớm hơn tuổi có thể là dấu hiệu cảnh báo một số vấn đề sức khỏe.
Với dân văn phòng, người có đặc thù công việc ngồi trên 40 tiếng mỗi tuần, vùng lưng rất dễ đau nhức, căng mỏi. Một vài động tác giãn cơ nhẹ nhàng sau giúp bạn thả lỏng cơ lưng sau mỗi ngày làm việc.
Nghiên cứu gần đây cho thấy dậy thì có thể xảy ra sớm hơn đối với cả bé trai và bé gái. Trung bình, bé gái sẽ bắt đầu dậy thì vào khoảng 11 tuổi và bé trai vào khoảng 12 tuổi. Nếu dậy thì bắt đầu sớm hơn, đó có thể là dấu hiệu của tình trạng dậy thì sớm. Tình trạng này xảy ra trước 8 tuổi ở bé gái và trước 9 tuổi ở bé trai. Cần tìm hiểu lý do tại sao tuổi dậy thì có thể xảy ra sớm hơn, các dấu hiệu và nguyên nhân gây ra tình trạng này.
Chế độ ăn uống có ảnh hưởng không nhỏ đến "chuyện ấy". Lưu ý tránh ăn một số thực phẩm sau trước cuộc "yêu" để không làm gián đoạn sự thăng hoa.
Dinh dưỡng đúng không chỉ tốt cho sự phát triển thể chất của trẻ mà còn tác động tích cực đến hoạt động não bộ. Cha mẹ có thể tham khảo 10 loại thực phẩm giúp tăng cường trí não.