Táo bón là gì?
Ở nhiều người, táo bón chỉ đơn thuần có nghĩa là ít đi đại tiện. Tuy nhiên, đối với một số người khác táo bón có nghĩa là phân cứng, phân khô đi đại tiện phải gắng sức rặn, hay là cảm giác còn phân trong ruột sau khi đi đại tiện. Được coi là táo bón khi phải rặn nhiều khi đại tiện, phân cục lổn nhổn, cảm giác đại tiện không hết phân, cảm giác phân bị nghẹt lại ở hậu môn trực tràng, đại tiện dưới 3 lần/tuần. Với trẻ em thì phân cứng như đá cuội trong hầu hết các lần đi đại tiện trong tối thiểu hai tuần. Tình trạng táo bón không liên quan đến các bệnh về nội tiết, biến dưỡng, cấu trúc...
Nguyên nhân nào gây bệnh?
Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng có hai nhóm nguyên nhân chính:
Nhóm nguyên nhân cơ năng: Bệnh toàn thân (sốt cao, hậu phẫu vì mất nước phân khô); do dùng thuốc (các thuốc giảm đau gây nghiện như codeine, oxycodone, hdrophormone; các thuốc chống trầm cảm như amitriptylene và imipramine.
Các thuốc chống động kinh như phenytoin và carbamazepine; thuốc chẹn kênh calci như diltiazem và nifedipine; các thuốc antacid có chứa nhôm như amphogel, phosphalugel và basaljel...); do phản xạ đi đại tiện (có thể điều chỉnh được theo ý muốn, nghĩa là một người bình thường có thể ngăn cảm giác thúc bách muốn đi đại tiện. Dầu vậy, ngăn cảm giác đi đại tiện thường xuyên sẽ dẫn đến mất cảm giác thúc bách và dẫn đến táo bón); Do chế độ ăn (chất xơ rất quan trọng để duy trì phân to, mềm.
Do đó các chế độ ăn ít chất xơ có thể gây táo bón. Nguồn chất xơ tự nhiên tốt nhất là trái cây, rau và các loại hạt; Do thuốc nhuận tràng (một trong những nguyên nhân nghi ngờ gây táo bón nặng là lạm dụng các chất kích thích nhuận tràng (như cây keo, dầu thầu dầu và vài loại thảo mộc; Sử dụng chất kích thích đại tràng làm xuất hiện chu kỳ bất thường, sau đó tổn thương có thể gây táo bón và phải cần dùng lượng chất kích thích nhuận tràng nhiều hơn nữa.
Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác như: do phản xạ, do ngồi nhiều, do người già suy nhược nằm lâu, do căng thẳng thần kinh...
Nhóm nguyên nhân thực tổn: Tổn thương ống tiêu hóa, cản trở lưu thông (u, chít hẹp...); Dị dạng đại tràng (to, dài hoặc vừa to lại vừa dài quá); Viêm đại tràng mạn thể có co thắt; Hội chứng ruột kích thích thể táo; Tổn thương trực tràng hậu môn (trĩ, hẹp trực tràng); Tổn thương ngoài ống tiêu hoá; Có thai vào những tháng cuối; U tử cung, tiền liệt tuyến, dính sau mổ; Tổn thương não màng não (viêm màng não tăng áp sọ tổn thương tủy sống, hội chứng màng não...).
Trước hết, cần tìm ra nguyên nhân gây táo bón để điều trị theo nguyên nhân. Ngoài việc điều trị căn nguyên, nếu táo bón do các nguyên nhân khác thì có thể điều trị bằng cách:
Nếu do phản ứng phụ của thuốc thì có thể đề nghị bác sĩ cho dừng thuốc hoặc đổi thuốc khác.
Nếu do ăn uống không hợp lý phải cải thiện việc ăn uống, ăn nhiều chất xơ, chất bã (rau xanh 200 – 300g/ngày), uống nhiều nước (2 – 2,5 lít/ ngày), ăn thêm các sản phẩm nhuận tràng như rau đay, mồng tơi, khoai lang, mướp, đồ ngọt, cacao, socola... kiêng uống trà đặc, cà phê, rượu.
Nếu do rối loạn mất phản xạ đại tiện thì khôi phục lại phản xạ bằng cách đi đại tiện đúng giờ, đi ngay khi mới mót, không nhịn, không mót cũng đi đại tiện đúng giờ để tạo lập dần phản xạ đi ngoài.
Cuối cùng là việc sử dụng thuốc nhuận tràng. Có rất nhiều thuốc nhuận tràng khác nhau tuỳ theo cơ chế tác dụng đó là: chất xơ và chất nhầy, thuốc nhuận tràng làm mềm phân, thuốc nhuận tràng thẩm thấu, thuốc nhuận tràng kích thích nhu động, thuốc nhuận tràng tác dụng tại chỗ… Lưu ý, khi sử dụng các thuốc này nên có chỉ định của bác sĩ.
Táo bón là một triệu chứng thông thường trong cuộc sống, đa số người cho rằng nó không phức tạp và đã coi nhẹ triệu chứng, tự điều trị vì nghĩ rằng chỉ cần sử dụng thuốc nhuận tràng là đủ. Tình trạng đó kéo dài sẽ dẫn đến nhiều hậu quả như bị trĩ, sa niêm mạc trực tràng... Thói quen tốt nhất là nên đi khám bệnh để được tìm ra nguyên nhân và điều trị đúng tránh tình trạng lạm dụng thuốc nhuận tràng.
Hà Nội, ngày 27/11/2025 – Kết quả nghiên cứu mới nhất do Viện Y học ứng dụng Việt Nam thực hiện được công bố tại Hội thảo khoa học “Thực trạng dinh dưỡng, sức khỏe người cao tuổi ở một số thành phố lớn và đề xuất một số giải pháp” đã chỉ ra những thách thức lớn trong công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi (NCT) tại các đô thị lớn.
Chế độ ăn kiêng low-carb (ít carbohydrate) đã chứng minh được hiệu quả trong việc giảm cân nhanh chóng và cải thiện nhiều chỉ số sức khỏe. Tuy nhiên, chìa khóa để thành công không phải là việc cắt giảm carb một cách mù quáng, mà là thực hiện một cách thông minh, bền vững để biến nó thành một lối sống lâu dài.
Ung thư đại trực tràng là căn bệnh phổ biến và gây tử vong cao trên toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam. Tại Việt Nam, ung thư đại trực tràng cũng nằm trong top năm loại ung thư gây tử vong hàng đầu. Tuy nhiên, nguy cơ mắc bệnh có thể giảm đáng kể thông qua các biện pháp phòng ngừa hiệu quả. Bài viết này sẽ đưa ra lời khuyên thiết thực để phòng ngừa ung thư đại trực tràng, bao gồm điều chỉnh chế độ ăn uống, tăng cường vận động và sàng lọc định kỳ, giúp bạn chủ động bảo vệ sức khỏe.
Loãng xương (osteoporosis) là một bệnh lý phổ biến thường gặp ở người cao tuổi gặp cả ở nam và nữ . Do đó, việc chuẩn đoán sớm, theo dõi và kiểm soát loãng xương là điều rất thiết, từ đó ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng.
Trứng là thực phẩm giàu dinh dưỡng, có lợi cho sức khỏe nhưng lại gây triệu chứng khó chịu cho nhiều người mắc hội chứng ruột kích thích.
Tuổi 50 được xem là giai đoạn “chín muồi” của cuộc đời – nhưng cũng là thời điểm nhiều bệnh lý mạn tính bắt đầu xuất hiện. Nếu không chú ý chăm sóc, các vấn đề sức khỏe âm thầm tiến triển có thể làm giảm chất lượng cuộc sống và rút ngắn tuổi thọ.
Mùa cúm đến, câu hỏi "Liệu con tôi bị cúm A có nên đi học không?" luôn là nỗi băn khoăn của nhiều phụ huynh. Quyết định này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe và tốc độ hồi phục của trẻ mà còn tác động trực tiếp đến sức khỏe của cộng đồng trường học.
Bệnh đa u các tuyến nội tiết loại 1 (MEN 1) là một bệnh lý hiếm gặp. Bệnh chủ yếu gây ra các khối u ở các tuyến sản xuất hormone hay còn được gọi là các tuyến nội tiết. Bệnh cũng có thể gây ra các khối u ở ruột non và dạ dày. Một tên gọi khác của bệnh là hội chứng Wermer. Cùng tìm hiểu về bệnh đa u các tuyến nội tiết loại 1 qua bài viết sau đây!