Sushi là một món ăn truyền thống ở Nhật Bản và được rất nhiều người Mỹ yêu thích. Sashimi-một dạng cá thái lát mỏng thường được ăn sống với nhiều loại nước sốt (wasabi hoặc xì dầu) cũng rất phổ biến trong văn hóa ẩm thực ngày nay.
Không giống như sashimi, sushi không nhất định phải chứa cả cá sống. Thực tế, sushi chỉ đơn giản dùng để mô tả món ăn được cuộn tròn nhỏ có hương vị giấm với gạo đã nấu chín bên trong. Sau đó những viên này được bọc lại bằng tảo biển, trang trí với rau, trứng, cá sống, cá chín cũng như nhiều loại thức ăn khác.
Được biết đến với cá sống, vì vậy khi ăn sushi hoặc sashimi việc chúng ta cần quan tâm là những nguy cơ về sức khỏe, ví dụ như những bệnh có thể gây ra bởi vi khuẩn hoặc kí sinh trùng.
Giun ký sinh Anisakiasis
Nhiễm trùng ở người do Anisakiasis và các dạng kí sinh trùng khác hoặc giun tròn có thể gây ra do ăn cá sống hoặc gỏi cá.
Nuốt phải dạng kí sinh trùng nhỏ này có thể dẫn đến đau bụng dữ dội, buồn nôn và có thể nôn trong vòng vài giờ sau ăn. Thâm chí kinh khủng hơn, nếu giun không bị ho hoặc nôn ra có thể thâm nhập vào thành ruột của bạn và gây ra phản ứng miễn dịch cục bộ.

Nếu điều này xảy ra, giun cuối cùng cũng sẽ chết và loại bỏ khỏi đường ruột. Tuy nhiên ở các trường hợp nặng, cần phải loại bỏ giun ra ngoài bằng các phẫu thuật cần sử dụng giảm đau.
Các loài vibro
Tiêu thụ các loại cá, động vật có vỏ sống hoặc chưa chín, đặc biệt là sò có liên quan đến loài vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus. Nhiễm trùng do vi khuẩn này có thể gây ra các triệu chứng như tiêu chảy (có thể lẫn máu), đau bụng, nôn, buồn nôn, nhức đầu, sốt, ớn lạnh. Nhiễm trùng có thể trở nên nghiêm trọng ở những người suy giảm miễn dịch.
Một dạng Vibrio khác-Vibrio vulnificus được tìm thấy ở hàu, trai và cua. Ở những người khỏe mạnh, tiêu thụ loại vi khuẩn này có thể gây buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, cúm. Tuy nhiên đối với những người có bệnh về gan mật, suy giảm miễn dịch, loại vi khuẩn này có thể đi vào máu, gây ra nhiễm khuẩn cho toàn bộ cơ thể đe dọa đến tính mạng.
Ngoài ra, các loài vibrio có thể gây nhiễm trùng vết thương thông qua các vết loét tiếp xúc với nguồn nước có chứa vi khuẩn. Ví dụ như ở khu vực đồ đã loại bỏ sau khi mở hàu ở trên thuyền. Cũng giống như các bệnh đường tiêu hóa, những loại nhiễm trùng này đều nghiêm trọng ở những người bị suy giảm hệ miễn dịch.
Các nhiễm trùng khác có thể liên quan đến việc tiêu thụ sushi
Ngoài hai dạng bệnh ở trên, có thêm một số bệnh nhiễm trùng khác liên quan đến sushi và sashimi.
Listeriosis
Listeriosis là một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn Listeria monocytogenes gây ra. Vi khuẩn này có thể được tìm thấy trong hải sản sống và một số loại thực phẩm khác chẳn hạn như sữa không tiệt trùng, rau, mầm sống.
Phụ nữ có thai, trẻ sơ sinh (vi khuẩn có thể đi qua nhau thai), người già và những người có hệ miễn dịch suy yếu là những đối tượng có nguy cơ phát triển listeriosis nhiều nhất.
Ở những người không mang bầu, listeriosis có thể gây ra các triệu chứng nhẹ như cúm và tiêu chảy. Các triệu chứng có thể nghiêm trọng hơn nếu nhiễm trùng đã lan đến hệ thần kinh. Ở phụ nữ mang thai, bệnh listeriosis có thể dẫn đến sảy thai, thai chết, sinh non hoặc nhiễm trùng nghiêm trọng ở trẻ sơ sinh.
Salmonella
Nhiễm trùng salmonella gây ra các triệu chứng tiêu chảy, sốt và đau bụng, thường bắt đầu trong vòng một đến ba ngày sau khi ăn thực phẩm bị ô nhiễm. Người già, trẻ sơ sinh và những người có hệ miễn dịch kém có nguy cơ mắc bệnh nặng hơn, đôi khi phải nhập viện.
Bacillus Cereus
Bacillus Cereus là một loại bệnh khác do thực phẩm có liên quan đến sushi, đặc biệt là do nó liên quan đến ăn các loại gạo nhiễm khuẩn kèm các thức ăn như cá, rau, thịt, sữa. Có hai dạng của Bacillus Cereus là dạng tiêu chảy và dạng nôn. Dạng nôn thường liên quan đến tiêu thụ gạo nhiễm khuẩn.
Xử lý thực phẩm bị ô nhiễm
Nếu người chế biến thực phẩm không xử lý vệ sinh tốt, các bệnh nhiễm trùng khác có thể lây lan và gây bệnh cho người tiêu thụ chúng.
Thông tin chi tiết tham khảo thêm tại: Sai lầm khi chế biến và bảo quản thực phẩm
Nghề giáo là một trong những nghề cao quý, đòi hỏi sự tận tâm và năng lượng lớn. Tuy nhiên, với áp lực công việc, lịch trình bận rộn và yêu cầu không ngừng đổi mới, giáo viên thường đối mặt với nguy cơ kiệt sức về cả thể chất lẫn tinh thần.
Thịt lợn ba chỉ cung cấp protein và vitamin nhóm B nhưng cũng chứa nhiều chất béo. Tìm hiểu lợi ích dinh dưỡng và cách ăn hợp lý để bảo vệ sức khỏe.
Khám sức khỏe định kỳ không chỉ là một hoạt động y tế mà còn là cách mỗi người thể hiện sự quan tâm đến bản thân và gia đình. Trong cuộc sống hiện đại, khi nhịp sống ngày càng hối hả, nhiều người thường bỏ qua việc kiểm tra sức khỏe đều đặn, chỉ tìm đến bác sĩ khi xuất hiện triệu chứng rõ ràng. Tuy nhiên, việc duy trì thói quen khám sức khỏe định kỳ có thể giúp phát hiện sớm các vấn đề sức khỏe, từ đó tăng cơ hội điều trị thành công và giảm thiểu chi phí y tế. Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ làm rõ vai trò của khám sức khỏe định kỳ và những lợi ích thiết thực mà nó mang lại.
Sức khỏe sinh sản nữ giới có vai trò rất quan trọng đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, hiện nay nhiều phụ nữ Việt Nam vẫn chưa chú trọng chăm sóc sức khỏe sinh sản, dẫn đến hơn 70% trong số họ mắc các bệnh phụ khoa từ nhẹ đến nặng. Vì vậy, việc nhận biết sớm dấu hiệu bất thường, khám phụ khoa định kỳ và phòng ngừa là rất cần thiết để bảo vệ sức khỏe sinh sản.
Canxi là khoáng chất đóng vai trò quan trọng trong nhiều chức năng sống của cơ thể, không chỉ riêng hệ xương. Tuy nhiên không phải cứ ăn thực phẩm giàu canxi là đủ, chúng ta cần biết cách để cơ thể hấp thụ canxi tốt nhất.
Run là những chuyển động không tự chủ, nhanh, liên tục, qua lại, ở một phần hoặc toàn bộ cơ thể. Một số bệnh lý thần kinh, một số loại thuốc và tình trạng lo âu thường gây ra run.
Cá hồi là nguồn cung cấp dồi dào acid béo omega-3, một chất dinh dưỡng đặc biệt có lợi cho sức khỏe con người. Nên ăn cá hồi như thế nào và ăn vào thời điểm nào để tận dụng tối đa lợi ích của omega-3?
Cha mẹ và người chăm sóc thường muốn nhận biết các dấu hiệu của chứng tự kỷ để có thể nhận ra khi cần. Chứng tự kỷ không ảnh hưởng đến ngoại hình của trẻ, do đó việc chẩn đoán phụ thuộc vào việc xác định những thay đổi trong hành vi hoặc các mốc phát triển của trẻ, chẳng hạn như chậm phát triển ngôn ngữ và thoái triển các mốc phát triển.