Phát hiện này không chỉ thúc đẩy việc viết lại sách giáo khoa mà có thể dẫn đến một sự hiểu biết mới về cách thức mà hệ thống miễn dịch ảnh hưởng đến não bộ và hành vi của chúng ta.
Jonathan Kipnis, dẫn đầu nhà nghiên cứu từ trường đại học Virginia nói với Josh Barney từ tạp chí trường đại học cho biết: "Tôi thực sự không tin rằng có những cấu trúc trong cơ thể mà chúng tôi không nhận thức đuợc. Tôi cho rằng cơ thể bị ánh xạ".
Các mạch bạch huyết mới lần đầu tiên được công bố trên tạp chí Nature vào tháng Sáu năm ngoái nhưng hầu như không thu hút được sự chú ý của những người bên ngoài trừ giới chuyên môn về khoa học thần kinh.
Tuy vậy phát hiện được công bố rộng rãi vào tuần trước khi nhóm nghiên cứu đã cho thấy rằng hệ thống miễn dịch có thể thực sự đang kiểm soát hành vi xã hội thông qua các mạch trong cơ thể.
Hệ bạch huyết được tạo thành từ các mạch vận chuyển các tế bào máu trắng và các tế bào miễn dịch khác trong cơ thể của chúng ta. Nó hoạt động với chức năng như một sự kết nối giữa các mô và mạch máu, giúp loại bỏ các tế bào máu chết và các chất thải khác. Tuy nhiên trong nhiều thập kỉ các nhà khoa học đã bị thuyết phục rằng não không có bất kì mạch bạch huyết nào và vì vậy không có một kết nối trực tiếp với hệ thống miễn dịch.
Cùng với hàng rào máu não, mạch bạch huyết giữ cho cơ quan quan trọng nhất của chúng ta an toàn với các xâm nhập từ mầm bệnh bên ngoài. Thế nhưng năm ngoái các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng đó không phải là trường hợp tất cả, trong thực tế, các mạch bạch huyết chỉ đơn giản là được cất giấu trong màng não, lớp mô bao bọc não.
Để làm rõ điều này, các nhà nghiên cứu đã lấy toàn bộ màng não chuột và đặt chúng vào một bản kính duy nhất thay vì cắt chúng như cách nghiên cứu họ vẫn thường làm.
Khi nghiên cứu toàn bộ màng não dưới kính hiển vi, các nhà khoa học đã nhận thấy rằng các tế bào miễn dịch đã lây lan trên nhóm mẫu trong các mẫu giống như các mạch – một hiện tượng mà các nghiên cứu trước đó đã cho rằng không thể.
Nhóm nghiên cứu sau đó đã tiêm thuốc nhuộm vào những con chuột đã được gây mê để họ có thể quan sát làm thế nào các mạch vận chuyển tế bào chất và miễn dịch từ dịch não tủy cùng tĩnh mạch ở các xoang vào các nốt hạch bạch huyết ở tử cung – một sự kết nối trực tiếp giữa hệ thống miễn dịch và não.
Nhóm nghiên cứu cũng tìm thấy các mạch tương tự khi khám nghiệm tử thi não bộ ở người nhưng họ vẫn cần thể hiện chính xác cách thức hoạt động và chức năng của chúng trên người. Họ phát hiện rằng đây có thể là chìa khóa để điều trị một loạt các bệnh từ tâm thần phân liệt đến Alzheimer.
Kipnis cho biết: "Với căn bệnh Alzheimer, có một sự tích lũy của các khối protein lớn bên trong não bộ. Chúng tôi cho rằng sở dĩ có sự tích lũy này là do các mạch đã không loại bỏ được các khối protein này".
Nghiên cứu mới nhất từ nhóm cũng cho thấy rằng bằng cách tắt đi một phân tử của hệ thống miễn dịch có thể gây ảnh hưởng rất nhiều đến hành vi của chuột và ngăn cản chúng tiếp xúc với những con chuột khác. Điều này cho thấy vai trò quan trọng giữa hệ thống miễn dịch và các trạng thái xã hội khác như bệnh tự kỷ.
Kipnis nói thêm: "Chúng tôi tin rằng đối với mỗi căn bệnh liên quan đến thần kinh sẽ có một thành phần miễn dịch với nó, các mạch bạch huyết này có thể là chìa khóa quan trọng".
Còn rất nhiều công việc cần được thực hiện và việc phát hiện ra các mạch bạch huyết mới sẽ đưa đến nhiều câu hỏi mà các nhà nghiên cứu sẽ tiếp tục để tìm ra câu trả lời. Tuy vậy phải thừa nhận rằng, thật thú vị để có được một cách tiếp cận mới về hệ thống thần kinh trung ương.
Kevin Lee, giám đốc Sở Khoa học Thần kinh tại trường đại học Virginia, người không tham gia vào nghiên cứu, nhớ lại khoảnh khắc khi Kipnis cho ông xem kết quả của mình. "Tôi chỉ nói duy nhất một câu: Họ sẽ phải viết lại sách giáo khoa".
Lee nói với Barney "Chưa bao giờ có một hệ thống bạch huyết cho hệ thần kinh trung ương và nó đã cho thấy rất rõ ràng từ lần quan sát đầu tiên. Họ đã thực hiện nhiều nghiên cứu kể từ đó để củng cố phát hiện này và điều này sẽ thay đổi căn bản cách mọi người nhìn vào mối quan hệ giữa hệ thống thần kinh trung ương với hệ thống miễn dịch".
Chất béo thường bị mang tiếng xấu mỗi khi nói về chế độ dinh dưỡng vì cho rằng đó là nguyên nhân gây bệnh tim mạch, tiểu đường hay béo phì. Quan niệm cắt bỏ hoàn toàn chất béo khỏi bữa ăn đã từng phổ biến trong một số khuyến nghị dinh dưỡng. Thực tế, không phải tất cả các chất béo đều có hại.
Mật ong với nghệ có thể được dùng cùng nhau trong chế độ ăn hằng ngày và thực phẩm bổ sung, vậy tác dụng của chúng có mạnh hơn khi kết hợp?
Du lịch là dịp để khám phá thiên nhiên, trải nghiệm văn hóa và tận hưởng những khoảnh khắc thư giãn. Tuy nhiên, bên cạnh những điều thú vị, các chuyến đi đôi khi cũng tiềm ẩn những rủi ro nhỏ nhưng phiền toái, chẳng hạn như những vết thương do côn trùng cắn
Sữa là nguồn dinh dưỡng quan trọng nên có trong chế độ ăn hằng ngày, trong đó sữa nguyên chất được đánh giá là nguồn cung cấp protein tốt. Tìm hiểu về dinh dưỡng, lợi ích và rủi ro khi tiêu thụ sữa nguyên chất.
Một số ứng dụng có thể cho bạn biết bạn dành bao nhiêu thời gian cho điện thoại và bạn dành bao nhiêu thời gian cho từng ứng dụng. Ngay cả khi bạn không nghĩ rằng mình sử dụng điện thoại quá nhiều, việc nhìn thấy những con số thống kê tần suất sử dụng có thể khiến bạn muốn đặt điện thoại xuống.
Chất béo thường bị hiểu lầm là “kẻ thù” của sức khỏe, đặc biệt là đối với tim mạch và cân nặng. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy không phải tất cả chất béo đều có hại. Ngược lại, một số loại chất béo tốt lại đóng vai trò thiết yếu trong việc duy trì năng lượng, hấp thụ vitamin và bảo vệ cơ thể khỏi viêm nhiễm. Trong đó, dầu ăn có nguồn gốc thực vật như dầu ô liu, dầu bơ, dầu mè... không chỉ mang lại hương vị phong phú cho món ăn mà còn cung cấp các acid béo có lợi cho tim mạch, não bộ và hệ miễn dịch.
Quan niệm sai về hàm lượng cholesterol trong trứng đã khiến nhiều người, đặc biệt là những người mắc bệnh tim hoặc đái tháo đường, loại bỏ trứng khỏi chế độ ăn uống của mình.
Nhịp sống hiện đại cũng dần làm thay đổi chế độ ăn uống của con người, khi thời gian đôi lúc được coi là ưu tiên số 1. Việt Nam cũng không ngoại lệ trong tiến trình này. Từ những bữa ăn truyền thống giản dị vừa phải, ngày nay, các món ăn nhanh, nhiều dầu mỡ dường như đã trở thành một phần không thể thiếu, hiện diện đậm nét trong hầu hết các bữa cơm gia đình đến các bữa tiệc bên ngoài. Không nằm ngoài quy luật đó, sự dịch chuyển của xu hướng tiêu thụ dầu mỡ trong chế độ ăn cũng thể hiện rõ nét, bao gồm sự tăng vọt về số lượng và sự ưu tiên thiên lệch ngày càng rõ rệt đối với một số loại chất béo nhất định.