Alzheimer và mất trí
Các nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa tình trạng thiếu vitamin D và các bất thường trong cấu trúc não bộ, suy giảm nhận thức và mất trí.
Trong một nghiên cứu gần đây trên tạp chí JAMA Neurology, các tác giả đã lo lượng vitamin D và kiểm tra chức năng nhận thức mỗi năm ở những bệnh nhân cao tuổi đa sắc tộc và thấy rằng, lượng vitamin D thấp có liên quan tới việc tăng tốc độ suy giảm nhận thức. Nghiên cứu này đang tiếp tục được tiến hành để xem xem liệu việc bổ sung vitamin D có thể giúp dự phòng và điều trị tình trạng này hay không.
Viêm đường tiết niệu
Vitamin D giúp dự phòng tình trạng nhiễm trùng bằng cách giúp cơ thể sản xuất ra một loại kháng thể tự nhiên. Một nghiên cứu trên tạp chí Archives of Disease in Childhood chỉ ra rằng, thiếu vitamin D là một yếu tố nguy cơ trong bệnh viêm đường tiết niệu ở trẻ nhỏ, đặc biệt là ở các bé gái. Lượng vitamin D thấp cũng có liên quan với tình trạng viêm đường tiết niệu ở người trưởng thành. Một nghiên cứu khác cho thấy những phụ nữ thường xuyên bị viêm đường tiết niệu tái phát thường có lượng vitamin D thấp hơn so với những phụ nữ không mắc bệnh.
Tiểu tiện không tự chủ ở nữ giới
Do vitamin D là rất cần thiết cho việc duy trì sức mạnh cơ bắp, nên việc thiếu vitamin D có thể dẫn đến yếu cơ vùng chậu, giảm trương lực cơ hỗ trợ bàng quang, âm đạo, tử cung và trực tràng, từ đó dẫn đến tình trạng tiểu tiện và đại tiện không tự chủ ở nữ giới, theo như kết quả một nghiên cứu năm 2012 trên International Urogynecology Journal. Với những phụ nữ kiểm soát bàng quang kém, việc duy trì lượng vitamin D ở ngưỡng khỏe mạnh đã được chứng minh là cũng quan trọng không kém so với việc luyện tập các cơ vùng chậu.
Hen suyễn
Theo một nghiên cứu lớn tại Israel xuất bản trên tạp chí Allergy ghi lại tình trạng hen suyễn của hơn 21.000 người trưởng thành thì, những người bị hen suyễn và thiếu vitamin D sẽ có nguy cơ lên cơn hen cấp tính cao hơn 25% và sẽ cần đến khám bác sỹ thường xuyên hơn vì bệnh hen của mình. Kết quả nghiên cứu này đã nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của việc xét nghiệm lượng vitamin D ở những bệnh nhân bị hen nặng.
Tâm thần phân liệt
Có một mối tương quan mãnh liệt giữa việc thiếu vitamin D và rối loạn về sức khỏe tâm thần này. Trong một nghiên cứu tổng hợp kết quả của 19 nghiên cứu khác vào năm 2014, các nhà nghiên cứu cho thấy có 65% số bệnh nhân bị tâm thần phân liệt có lượng vitamin D trong máu thấp, và những người thiếu vitamin D có nguy cơ bị tâm thần phân liệt cao hơn gấp 2 lần. Mối liên quan này không thực sự có nghĩa là thiếu vitamin D sẽ gây bệnh tâm thần phân liệt. Trên thực tế, các chuyên gia đưa ra giả thiết rằng, có thể, bệnh tâm thần phân liệt khiến người bệnh có lối sống và chế độ dinh dưỡng kém hơn, dẫn đến thiếu vitamin D.
Trầm cảm
Nữ giới là sinh viên đại học, có hàm lượng vitamin D trong cơ thể thấp sẽ dễ mắc phải các triệu chứng lâm sàng điển hình của bệnh trầm cảm, theo một nghiên cứu năm 2015 xuất bản trên Psychiatry Research. Một nghiên cứu tổng hợp lớn hơn được tiến hành trên hơn 31.000 đối tượng xuất bản trên British Journal of Psychiatry cũng nhận thấy mối liên quan tương tự. Và với bệnh trầm cảm, thì việc bổ sung vitamin D có thể sẽ đem lại hi vọng. Một nghiên cứu nhỏ năm 2012 chỉ ra rằng với những phụ nữ bị trầm cảm mức độ vừa và nặng, thì việc điều trị tình trạng thiếu vitamin D có thể sẽ giúp các triệu chứng bệnh được cải thiện. Các chuyên gia chưa chứng minh được hiệu quả của vitamin D với bệnh trầm cảm trên một số lượng lớn bệnh nhân, nhưng nếu được, thì vitamin D có thể sẽ giúp rất nhiều người cảm thấy hạnh phúc hơn.
Ung thư đại trực tràng
Các nhà nghiên cứu đã biết về mối liên hệ giữa vitamin D và nguy cơ ung thư từ những năm 1940. Gần đây hơn, một nghiên cứu tổng hợp năm 2011 tiến hành trên hơn 1 triệu người chỉ ra rằng, tiêu thụ nhiều vitamin D hơn và lượng vitamin D trong máu cao hơn có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng. Ngược lại, một thử nghiệm lâm sàng vào năm 2006 lại chỉ ra rằng, những phụ nữ bổ sung canxi và vitamin D trong thời giant rung bình là 7 năm không làm giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng, so sanh với những người dùng giả dược. Cần có thêm nhiều nghiên cứu hơn để làm sáng tỏ hơn mối quan hệ giữa ung thư đại trực tràng và vitamin D.
Ung thư vú
Một số bằng chứng gần đây đã chỉ ra mối liên quan giữa lượng vitamin D cao hơn và việc giảm nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu tổng hợp chỉ ra rằng, tăng nhẹ lượng vitamin D có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ sau mãn kinh đi khoảng 12%. Một nghiên cứu khác, trái lại, lại chỉ ra rằng lượng vitamin D trong máu không liên quan gì tới bệnh ung thư vú.
Ung thư tụy
Những người có hàm lượng vitamin D cao nhất sẽ ít có nguy cơ bị ung thư tụy hơn khoảng 35% so với những người có hàm lượng vitamin D thấp, theo một nghiên cứu trong vòng gần 20 năm của gần 120.000 người được tiến hành bởi các nhà nghiên cứu tại Brigham. Gần đây, các nhà nghiên cứu còn mới khám phá ra rằng, việc điều chỉnh dạng vitamin D cũng có thể sẽ giúp “dập tắt” một loại tế bào nhất định cần thiết cho sự phát triển của tế bào ung thư tụy. Do vậy, sẽ làm các tế bào ung thư tụy nhạy cảm hơn với việc điều trị bằng hóa trị.
Ung thư tiền liệt tuyến
Lượng vitamin D thấp có liên quan đến sự phát triển của khối u tuyến tiền liệt ở những bệnh nhân tiến hành sinh thiết trong một nghiên cứu năm 2014 trên tạp chí Clinical Cancer Research. Trong số những nam giới người Mỹ gốc Phi, giảm lượng vitamin D có liên quan đến việc tăng nguy cơ phát triển ung thư tiền liệt tuyến. Một nghiên cứu thử nghiệm tại trường Đại học Y Nam Carolina chỉ ra rằng, khi những người bị ung thư tiền liệt tuyến được bổ sung 4000 IU vitamin D/ngày trong vòng 60 ngày, thì 60% trong số họ sẽ nhận thấy sự cải thiện rõ rệt về khối u.
Loãng xương
Cơ thể chúng ta phụ thuộc vào vitamin D để hấp thu canxi và phát triển xương trong suốt cả cuộc đời. Trên thực tế, có hơn 50% số phụ nữ điều trị mất xương có lượng vitamin D không đủ. Theo Hiệp hội Loãng xương Quốc gia Hoa Kỳ, nên bổ sung 400-800 IU vitamin D/ngày với người trưởng thành dưới 50 tuổi và 800 -1000 IU/ngày với người trên 50 tuổi.
Còi xương
Còi xương là một bệnh thường gặp ở trẻ em, có nguyên nhân là do thiếu vitamin D trầm trọng, kéo dài. Trẻ nhỏ từ 3-36 tháng tuổi là những đối tượng có nguy cơ bị còi xương cao nhất bởi xương của trẻ phát triển rất nhanh. Vào cuối thế kỷ 19, các bác sỹ đã nhận ra rằng, dầu cá tuyết giàu vitamin D có thể giúp dự phòng và điều trị tình trạng còi xương ở trẻ nhỏ. Các nhà sản xuất xữa bổ sung vitamin D vào sữa lần đầu tiên vào những năm 1930, và từ đó trở đi, bệnh còi xương ngày càng trở nên hiếm gặp hơn tại Mỹ. Khi trẻ được chẩn đoán mắc bệnh còi xương, thì việc bổ sung vitamin D và canxi có thể sữa chữa được đa số những tổn thương tại xương trong vòng vài tháng, thậm chí là vài ngày. Viện Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến nghị với tất cả trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và thanh thiếu niên, nên tiêu thụ ít nhất 400 IU vitamin D/ngày.
Rối loạn cương dương
Nam giới thiếu vitamin D có nguy cơ bị rối loạn cương dương cao hơn khoảng 32% so với na mgới có lượng vitamin D cao, theo một nghiên cứu được trình bày tại hội thảo hàng năm của Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ vào năm 2015. Tác giả nghiên cứu cho rằng, kết quả này cho thấy ảnh hưởng của vitamin D lên chức năng mạch máu, bao gồm cả các mạch máu mang máu đến cơ quan sịch dục. Nếu có thêm nhiều nghiên cứu có cùng kết quả tương tự, thì việc đo lường lượng vitamin D có thể là một công cụ để chẩn đoán nguy cơ rối loạn cương dương.
Khả năng ngôn ngữ của trẻ
Phụ nữ có lượng vitamin D thấp tại tuần thai thứ 18 có nguy cơ sinh ra những sẽ chậm phát triển về ngôn ngữ cao hơn gấp đôi so với những phụ nữ có lượng vitamin D cao vào thời điểm này, theo một nghiên cứu tại Úc xuất bản trên Pediatrics. Kết quả này không chứng minh việc thiếu vitamin D gây ra khiếm khuyết về mặt ngôn ngữ, nhưng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển não bộ của thai nhi. Việc bổ sung vitamin D khi mang thai rất có thể sẽ giúp làm giảm nguy cơ mắc phải các vấn đề về ngôn ngữ ở trẻ em sinh ra sau này.
Thông tin thêm trong bài viết: Hướng dẫn dinh dưỡng về canxi và vitamin D
Trẻ em ngày nay có xu hướng dậy thì sớm. Dinh dưỡng cũng là một trong những yếu tố góp phần gây dậy thì sớm ở trẻ.
Da của chúng ta là cơ quan lớn nhất của cơ thể và nhiều tình trạng da có cả biểu hiện bên trong và bên ngoài. Chỉ có một số ít nghiên cứu đã xem xét cách chế độ ăn uống có thể tác động đến một số tình trạng da liễu nhất định. Bài viết dưới đây sẽ liệt kê danh sách các tình trạng da phổ biến và cách chế độ ăn uống có thể giúp ích hoặc gây hại cho làn da của bạn.
Sự thay đổi nội tiết tố ở phụ nữ tuổi mãn kinh không chỉ dẫn đến các triệu chứng được nhiều người biết đến như bốc hoả, thay đổi tâm trạng,…mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe xương, tăng nguy cơ loãng xương và gãy xương.
Xu hướng dậy thì sớm ngày càng gia tăng. Một số ít có thể là biểu hiện của bệnh lý, cần được điều trị đặc biệt.
Một nghiên cứu mới cho thấy, ngay cả khi bạn hút thuốc lá điện tử không chứa nicotine vẫn có tác động tiêu cực đến lưu lượng máu của cơ thể.
Khi bạn già đi, làn da cũng như các cơ quan khác sẽ bị lão hóa như một lẽ tự nhiên. Hãy cùng nhau tìm hiểu những điều xảy ra với làn da khi già đi qua bài viết dưới đây.
Tiêu hóa là một chức năng vô cùng quan trọng đảm bảo cho sự phát triển của cơ thể trong mọi giai đoạn, đặc biệt là năm đầu tiên của cuộc đời.
Tự ý cho trẻ dùng thuốc kháng sinh khi trẻ gặp triệu chứng ho, sốt do viêm phế quản là sai lầm các bậc phụ huynh cần tránh.