Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Nguy cơ biến chứng zona theo độ tuổi

Phát ban có thể là dấu hiệu của một số bệnh khác nhau, từ phản ứng dị ứng đến bệnh chàm. Nhưng khi phát ban đi kèm với các triệu chứng khác như ngứa, rát, đau hoặc các vấn đề về thị lực, đó có thể là dấu hiệu của bệnh zona.

Các triệu chứng và biến chứng đi kèm với chẩn đoán bệnh zona có thể khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi của bạn. Nhiều trường hợp dù đã cao tuổi được chẩn đoán mắc bệnh zona nhưng vẫn tiếp tục bị biến chứng do nhiễm virus như viêm não, hội chứng Ramsay Hunt (RHS) -một chứng rối loạn thần kinh hiếm gặp gây liệt mặt và phát ban. Hội chứng Ramsay Hunt do varicella zoster gây ra cùng loại virus gây bệnh zona và thủy đậu.

Sự khác nhau về trải nghiệm bệnh zona ở mỗi độ tuổi

Bất cứ ai đã khỏi bệnh thủy đậu đều có thể bị bệnh zona, kể cả trẻ em và thanh niên. Tuy nhiên, nguy cơ phát triển bệnh zona tăng lên khi bạn già đi. Những người bị bệnh zona có thể gặp các biến chứng khác như đau dây thần kinh sau zona (PHN), là tình trạng đau rát ở dây thần kinh và da. Người bệnh cũng có nguy cơ bị biến chứng về mắt, viêm phổi, các vấn đề về thính giác, viêm não và thậm chí tử vong.

Những biến chứng của zona tăng lên khi bạn già đi và có thể kéo dài hơn so với các biến chứng ở người trẻ mắc bệnh zona. Ví dụ, một người lớn tuổi bị bệnh zona có nhiều khả năng đau dây thần kinh sau zona PHN và bị đau dữ dội hơn.

Nguy cơ mắc bệnh zona và các biến chứng của bệnh thay đổi như thế nào giữa các nhóm tuổi?

Người lớn tuổi (50 tuổi trở lên): Nguy cơ phát triển bệnh zona và các biến chứng của bệnh tăng lên theo độ tuổi, đặc biệt là sau tuổi 50. Khoảng một nửa số trường hợp mắc bệnh zona xảy ra ở người lớn từ 60 tuổi trở lên. Nguy cơ mắc bệnh zona tăng lên ở tuổi 70. Người lớn tuổi cũng có nhiều khả năng bị phát ban lâu hơn, đau dữ dội và đau dây thần kinh sau zona.

Người lớn ở độ tuổi trung niên (30 đến 50): Người lớn từ 30 - 50 tuổi vẫn có thể mắc bệnh zona, tuy nhiên, nguy cơ thấp hơn và hiếm gặp hơn so với người lớn tuổi. Người trung niên trong độ tuổi 30 - 50 tuổi cũng có thể gặp các biến chứng liên quan đến bệnh zona, nhưng chúng thường ít phổ biến hơn ở nhóm tuổi này.

Thanh niên (20 - 30 tuổi): Bệnh zona và các biến chứng của bệnh ít phổ biến hơn ở những người trẻ tuổi so với người lớn tuổi. Tuy nhiên, một số người trong độ tuổi này có thể bị bệnh zona, đặc biệt nếu họ có các yếu tố nguy cơ cụ thể như: hệ thống miễn dịch suy yếu hoặc tình trạng sức khỏe tiềm ẩn.

Đọc thêm bài viết: Bạn có thể bị zona khi chưa từng bị thủy đậu không?

Tại sao bệnh zona ảnh hưởng rất khác nhau?

Lý do chính khiến một số người có nguy cơ mắc bệnh zona cao hơn và gặp nhiều biến chứng hơn những người khác là do hệ thống miễn dịch của họ bị suy yếu do tuổi tác. Tuy nhiên, một số tình trạng sức khỏe hoặc phương pháp điều trị làm suy yếu hệ miễn dịch cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh zona và biến chứng ở tất cả các nhóm tuổi.

Bạn càng lớn tuổi và càng bị suy giảm miễn dịch thì nguy cơ mắc bệnh càng cao. Nếu bạn bị ung thư hoặc bạn đang dùng steroid, bị bệnh bạch cầu, ung thư hạch hoặc nếu bạn được cấy ghép nội tạng, những điều đó cũng sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh zona của bạn.

Một lý do khác khiến bệnh zona có xu hướng tác động khác nhau đến các nhóm tuổi nhất định, đặc biệt là người lớn tuổi là do bị nhiễm thủy đậu trước đó. Khi ai đó bị thủy đậu, họ sẽ dễ bị bệnh zona hơn sau này vì cả bệnh zona và thủy đậu đều do cùng một loại virus gây ra, được gọi là virus varicella zoster (VZV). Mặc dù virus không hoạt động trong các tế bào thần kinh sau khi bị nhiễm trùng ban đầu (thủy đậu), nhưng virus có thể hoạt động trở lại ở tuổi trưởng thành, tuy nhiên khi đó virus sẽ phát triển thành bệnh zona chứ không phải thủy đậu.

Khi bạn nhiễm virus varicella zoster, virus có thể không hoạt động nhưng không bao giờ biến mất. Vì vậy đến một lúc nào đó, virus có thể được kích hoạt lại khi hệ thống miễn dịch của bạn yếu. Nếu bạn tiêm vaccine thủy đậu, bạn có thể sẽ không nhiễm virus varicella zoster và nguy cơ mắc bệnh zona. Do đó nguy cơ biến chứng bệnh zona sẽ thấp hơn.

Bệnh zona được điều trị như thế nào?

Điều trị bệnh zona cần có sự kết hợp của thuốc kháng virus, thuốc kiểm soát cơn đau và các biện pháp tự chăm sóc.

Thuốc kháng virus: Các loại thuốc kháng virus như acyclovir, valacyclovir và famciclovir có thể điều trị bệnh zona, rút ​​ngắn thời gian và mức độ nghiêm trọng của bệnh, đồng thời giảm thiểu khả năng biến chứng của bệnh nhân. Những loại thuốc này có hiệu quả nhất nếu bạn bắt đầu dùng chúng càng sớm càng tốt sau khi phát ban xuất hiện.

Kiểm soát cơn đau: Các loại thuốc không kê đơn như acetaminophen hoặc ibuprofen có thể giúp giảm bớt sự khó chịu và trong một số trường hợp, thuốc theo toa có thể được sử dụng để kiểm soát cơn đau dữ dội. Ngoài ra, một số loại kem bôi hoặc thuốc mỡ có thể được bôi trực tiếp lên các khu vực bị ảnh hưởng.

Các biện pháp tự chăm sóc: Da ngứa và đau nên chườm mát. Bạn có thể sử dụng các loại kem làm dịu da hoặc tắm bột yến mạch. Điều quan trọng là phải làm sạch khu vực bị nhiễm bệnh và tránh gãi càng nhiều càng tốt để ngăn ngừa nhiễm trùng thứ cấp. Kiểm soát căng thẳng và nghỉ ngơi nhiều cũng có thể giúp thúc đẩy quá trình chữa bệnh và hỗ trợ hệ thống miễn dịch của cơ thể phục hồi.

Điều quan trọng cần lưu ý là mặc dù các biện pháp này có thể giúp kiểm soát bệnh zona, nhưng bệnh nhân vẫn nên tham khảo ý kiến ​​của bác sĩ để được chẩn đoán chính xác và có kế hoạch điều trị cụ thể.

Đọc thêm bài viết: Một người có thể bị zona nhiều lần không?

Có thể ngăn ngừa các biến chứng bệnh zona?

Cách hiệu quả nhất để ngăn ngừa bệnh zona là tiêm vacine tái tổ hợp có tên là Shingrix. Vaccine cũng có thể giúp ngăn ngừa chứng đau dây thần kinh sau zona. Các chuyên gia khuyến nghị bạn nên tiêm 2 liều vaccine để ngăn ngừa bệnh zona và các biến chứng liên quan khác ở người lớn từ 50 tuổi trở lên. Vaccine cũng được khuyến nghị cho những người từ 19 tuổi trở lên có hệ thống miễn dịch suy yếu do bệnh tật hoặc do điều trị.

Vaccine ngừa bệnh zona có tác dụng kéo dài bao lâu?

2 liều vaccine cũng được chứng minh là có hiệu quả trong việc ngăn ngừa chứng đau dây thần kinh sau zona PHN. Nó có hiệu quả 91,2% ở những người từ 50 tuổi trở lên và 88,8% ở người lớn từ 70 tuổi trở lên. Bên cạnh việc tiêm phòng, mọi người có thể ngăn ngừa bệnh zona bằng cách duy trì hệ thống miễn dịch khỏe mạnh bằng cách ăn một chế độ ăn uống cân bằng giàu trái cây, rau, ngũ cốc và protein, tập thể dục và ngủ đều đặn, kiểm soát căng thẳng và tránh những thói quen không lành mạnh như uống quá nhiều rượu và hút thuốc.

Chúng tôi mong rằng bài viết này đã cung cấp thông tin quan trọng về sức khỏe dành cho bạn. Nhằm đáp ứng nhu cầu của các khách hàng trong việc chăm sóc sức khỏe, Phòng khám Chuyên khoa Dinh dưỡng VIAM cung cấp các dịch vụ tư vấn, thăm khám dinh dưỡng cho trẻ với cam kết hỗ trợ phát triển sức khỏe và cải thiện các tình trạng như còi xương, suy dinh dưỡng, thừa cân, tư vấn dinh dưỡng cho tất cả các đối tượng… Hãy liên hệ với chúng tôi qua hotline 0935.18.39.39  hoặc 0243.633.5678 để nhận tư vấn chi tiết.

Bác sĩ Nguyễn Hoài Thu - Viện Y học ứng dụng Việt Nam - Theo Verywell Health
Bình luận
Tin mới
  • 04/12/2025

    Loãng xương ở phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh

    Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!

  • 04/12/2025

    Ai không nên ăn thịt lợn nọng?

    Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.

  • 04/12/2025

    Sự thật về tóc bạc

    Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.

  • 03/12/2025

    Có nên dùng ‘đường ăn kiêng’ để giảm cân?

    Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?

  • 03/12/2025

    Viêm xoang trong mùa đông

    Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.

  • 02/12/2025

    Eswatini – Quốc gia đầu tiên trên thế giới triển khai mũi tiêm phòng HIV hai lần mỗi năm

    Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.

  • 02/12/2025

    4 lợi ích nổi bật nhất của rau càng cua với sức khỏe

    Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.

  • 02/12/2025

    Các dấu hiệu nhận biết đột quỵ vào mùa đông

    Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.

Xem thêm