Chia sẻ những băn khoăn của người bệnh ung thư, BS.Nguyễn Thanh Hùng- Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, hiện tại, các bệnh nhân đang được điều trị ung thư có thể được đề nghị tiêm vắc xin phòng COVID-19 miễn là không có chống chỉ định với bất kì thành phần nào của thuốc.
Các bác sỹ ung thư có kinh nghiệm có thể tư vấn các loại vắc xin khác nhau cho bệnh nhân đang điều trị hoá trị, xạ trị, liệu pháp miễn dịch hoặc ghép tế bào gốc.
Thời gian tiêm vắc xin được lựa chọn giữa các chu kì điều trị, sau thời gian chờ đợi thích hợp cho các bệnh nhân được ghép tế bào gốc và điều trị bằng globulin miễn dịch để giảm thiểu rủi ro trong khi duy trì hiệu quả của vắc xin.
Cho đến nay, đã có một nghiên cứu của Wassengrin và cộng sự được công bố trên tạp chí Lancet Oncology báo cáo về kết quả an toàn của vắc xin ở những bệnh nhân đang điều trị ung thư (với thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch). Theo đó chúng ta có những khuyến cáo cụ thể cho người bệnh ung thư - BS.Nguyễn Thanh Hùng cho biết.
Những khuyến cáo cụ thể
- Hiện tại, người bệnh ung thư có thể sử dụng vắc xin COVID-19 và các loại vắc xin phòng bệnh khác mà không cần quan tâm đến thời điểm tiêm. Bao gồm việc có thể đồng thời tiêm vắc xin phòng COVID-19 và các vắc xin khác trong cùng ngày, cũng như cùng tiêm trong vòng 14 ngày.

BS.Nguyễn Thanh Hùng thăm khám cho bệnh nhân tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai.
Khuyến nghị của CDC Hoa Kỳ về thời điểm tiêm chủng sau nhiễm COVID-19 (sau khi hết cách ly) như sau: Tối thiểu ≥ 20 ngày dành cho bệnh nhân ung thư, và/hoặc sau khi điều trị bằng kháng thể đơn dòng hoặc huyết tương giai đoạn hồi phục của người nhiễm SARS-CoV-2 tối thiểu 90 ngày.
Bệnh ghép chống chủ (GVHD) và các phác đồ ức chế miễn dịch để điều trị GVHD (ví dụ: Corticoid toàn thân và tác nhân nhắm trúng đích) dự kiến sẽ làm giảm các phản ứng miễn dịch đối với tiêm chủng. Vì thế nên trì hoãn việc tiêm chúng cho đến khi giảm bớt liệu pháp ức chế miễn dịch và/hoặc dựa trên sự tác động tới hệ miễn dịch trên tế bào lympho B hay T để xem xét.
Bệnh nhân đang điều trị duy trì các thuốc miễn dịch như rituximab hay chất ức chế tyrosine kinase có thể có đáp ứng giảm độc lực với tiêm chủng.
Các chuyên gia công nhận rằng sự suy giảm bạch cầu hạt không ảnh hưởng đáng kể đến phản ứng miễn dịch đối với tiêm chủng. Áp dụng trong trường hợp có sự ức chế miễn dịch nặng ở những bệnh nhân có bệnh máu ác tính như một dấu hiệu đại diện để đánh giá khả năng phục hồi miễn dịch đầy đủ đáp ứng với vắc xin và số lượng tiểu cầu cần được phục hồi đủ để tránh biến chứng chảy máu khi tiêm bắp. Điều này không có ý nghĩa đối với sự giảm bạch cầu trong thời gian ngắn ở những khối u đặc ác tính.
Bệnh nhân đang tiếp nhận hoá trị
Ở những bệnh nhân đang tiếp nhận hoá trị, thời điểm tiêm chủng tối ưu liên quan đến các chu kì hoá trị chưa rõ ràng. Đối với sự thay đổi thời gian tiêm chủng đối với các phác đồ cụ thể và khoảng thời gian giữa các chu kì, không thể xác định rõ liệu tiêm chủng sẽ hiệu quả hơn nếu được sử dụng vào thời điểm điều trị hoá trị hay giữa các chu kì khi số lượng bạch cầu có thể ở mức ranh giới thấp. Trong trường hợp không có dữ liệu, lời khuyên được đưa ra là các bệnh nhân ở nhóm này nên tiếp nhận tiêm chủng khi có vắc xin.
Trên lí thuyết, các tác dụng ngoại ý liên quan đến miễn dịch trầm trọng hơn ở các bệnh nhân dùng thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch, nhưng cho đến nay các dữ liệu lâm sàng chưa cho thấy các phát hiện như vậy. Ngoài ra, không có dữ liệu về thời gian sử dụng vắc xin vì vậy có thể xem xét tiêm chủng trong cùng ngày với liệu pháp miễn dịch để thuận tiện và giảm bớt số lần đến cơ sở y tế.
Tránh tiêm vắc xin trong giai đoạn hậu phẫu
Lý do chính để tránh tiêm vắc xin trong giai đoạn hậu phẫu là để các triệu chứng (ví dụ như sốt) có thể được xác định chính xác do phẫu thuật hay do tiêm chủng. Đối với các phẫu thuật phức tạp hơn (ví dụ như cắt lách hoặc các phẫu thuật có thể dẫn đến trạng thái ức chế miễn dịch) bác sĩ phẫu thuật có thể đề nghị một khoảng thời gian trì hoãn dài hơn (+/- 2 tuần) kể từ thời điểm phẫu thuật.
Ngay cả khi được tiêm phòng, những người tiếp xúc gần vẫn phải tiếp tục đeo khẩu trang và tuân theo các hướng dẫn giãn cách xã hội và các khuyến nghị phòng dịch.
Bảng khuyến cáo tiêm vắc xin phòng COVID-19 cho người bệnh ung thư (Nguồn: NCCN)

Tham khảo thêm thông tin bài viết: Bệnh nhân ung thư có nguy cơ tử vong cao khi mắc COVID-19.
Để bảo vệ đôi môi, chúng ta thường sử dụng son dưỡng môi, giúp duy trì độ ẩm và ngăn ngừa tình trạng khô môi. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm thương mại chứa các chất hóa học, một số nguyên liệu tự nhiên có thể được tận dụng như các biện pháp khắc phục tại nhà an toàn và hiệu quả.
Bạn có thường xuyên quên những điều nhỏ nhặt như tên người quen hay vị trí chìa khóa không? Trí nhớ suy giảm là một phần tự nhiên của quá trình lão hóa, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận nó.
Vỏ của nhiều loại trái cây và rau củ có chứa các dưỡng chất có lợi cho sức khỏe như chất xơ, vitamin, khoáng chất, chất chống oxy hóa, giúp tăng cường hệ miễn dịch, cải thiện tiêu hóa...
Gừng thường được coi là nguyên liệu chính trong các phương pháp tự nhiên để giảm bớt các vấn đề về tiêu hóa. Mặc dù gừng là một lựa chọn tốt nhưng có một số loại thực phẩm khác có thể hỗ trợ tiêu hóa hiệu quả hơn.
Giấc ngủ là một phần thiết yếu của cuộc sống, chiếm khoảng 1/3 thời gian của chúng ta, mặc dù nó khiến cơ thể dễ bị tổn thương. Điều này là do giấc ngủ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tái tạo năng lượng, duy trì sức khỏe tổng thể, hỗ trợ chức năng não bộ, cải thiện trí nhớ, tăng cường hệ miễn dịch và giảm nguy cơ mắc các bệnh lý nghiêm trọng. Bài viết này sẽ đi sâu vào những lợi ích này và hướng dẫn cách tối ưu hóa giấc ngủ để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Cuộc tranh luận về protein động vật và protein thực vật đã kéo dài từ lâu. Sự khác biệt cốt lõi giữa hai nguồn đạm này là gì và nó ảnh hưởng thế nào đến mục tiêu sức khỏe?
Việc suy giảm hormone không phải là vấn đề riêng của ai cả, đặc biệt là trong mùa đông. Mùa đông gây ảnh hưởng tới rối loạn hormone và nội tiết tố cả ở nam giới và nữ giới.
Loãng xương là tình trạng giảm mật độ và chất lượng xương, làm tăng nguy cơ gãy và làm thay đổi cấu trúc xương theo thời gian. Hậu quả của loãng xương không chỉ dừng lại ở gãy xương mà còn tạo ra một chuỗi hệ lụy trên nhiều phương diện về mặt lâm sàng, hành vi, thói quen hằng ngày, tâm lý, xã hội và kinh tế.